Sunday, December 31, 2000

Tuổi “làm mẹ” phải đối mặt với bệnh gì?

Lứa tuổi 20 - 30 của phụ nữ được coi là một trong những giai đoạn đẹp nhất: Những rắc rối của tuổi dậy thì chấm dứt, cơ thể phát triển hoàn thiện, thực hiện thiên chức tuyệt vời nhất - làm mẹ… Thế nhưng, tại giai đoạn này, chị em cũng đừng quên bộ phận ngừa một số căn bệnh sau:

Thoái hóa võng mạc ngoại vi ở phụ nữ mang thai: Căn bệnh này có thể gây bong võng mạc - một trong những nguyên nhân bậc nhất gây mù - tại bệnh nhân cận thị nói chung và phụ nữ mang thai cận thị nói riêng. Ở bệnh nhân cận thị, do trục nhãn cầu bị kéo dài nhiều năm, võng mạc bị giãn mỏng và thoái hóa, nhất là là vùng ngoại vi, do đó võng mạc trở nên yếu ớt trước những tác động cơ học. Phụ nữ bị cận thị nguy cơ bong võng mạc trong quá trình sinh nở càng cao. Chính vì thế, chị em cần hết sức lưu ý. Ngoài việc đi khám thai theo định kỳ, phụ nữ bị cận thị cần đi kiểm tra mắt. Nếu những tổn thương võng mạc được phát hiện sớm, bệnh nhân chỉ cần trải qua một lần điều trị gia cố võng mạc bằng la-de giúp ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ bong võng mạc.

Nếu không được điều trị kịp thời, bong võng mạc sẽ dẫn tới mù lòa.
Bệnh trĩ trong khi mang thai và sau lúc sinh con:

Có rất nhiều nguyên nhân khiến phụ nữ có thai bị bệnh trĩ: ngồi nhiều, hạn chế vận động, uống ít nước... Trong quy trình sinh nở, việc rặn không chín xác cách làm nâng cao áp lực lên ổ bụng, khiến búi trĩ dễ sa ra ngoài. Sau khi sinh, tử cung mở to, tăng áp lực khoang chậu, tụ máu sưng phù tĩnh mạch tại phần hậu môn, gây ra bệnh trĩ. Bên cạnh đó, sau khi sinh, 1 số sản phụ thực hiện chế độ ăn uống kiêng khem quá mức… khiến nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Ngoài ra, các bệnh ung thư trực tràng, u bướu vùng tiểu khung, hiện tượng thai những tháng cuối cũng có thể gây chèn ép và cản trở đường về của tĩnh mạch làm cho đám rối trĩ căng phồng lên, gây bệnh. Đặc biệt, những phụ nữ trong quá trình mang thai đã bị trĩ, sau khi sinh con ví dụ không biết giữ gìn sẽ khiến bệnh tiến triển nặng hơn.

Để bộ phận bệnh trĩ, các bà mẹ mang thai và mới sinh con cần lưu ý: Tránh bị táo bón bằng cách bổ sung thêm các loại rau xanh, trái cây và lượng nước đầy đủ cho cơ thể. Tăng cường vận động cơ thể, đặc biệt Quan tâm tập luyện cơ vùng chậu để vùng cơ này mềm mại, khỏe, từ đó giảm thiểu được bệnh trĩ. Sau khi đại luôn thể nên rửa sạch vùng hậu môn và lau khô. Nên cải thiện giảm căng thẳng và áp lực không cần thiết. 

Tư vấn sức khỏe sinh sản cho phụ nữ.          
Trầm cảm và stress: Đây là căn bệnh mà phụ nữ thời hiện đại rất hay mắc phải. Nguyên nhân là do áp lực trong công việc, trong cuộc sống. Căn bệnh này càng tăng lúc có gia đình, sinh nở và nuôi dạy con cái. Hậu quả của trầm cảm và stress, nếu tại mức độ nhẹ sẽ khiến phụ nữ dễ cáu gắt, lo âu, tính tình thất thường; cao hơn thì chán ăn hoặc ăn uống không kiểm soát, đau đầu, mệt mỏi… Tình trạng này ví dụ trường diễn sẽ khiến chị em suy sụp sức khỏe, dễ mắc các bệnh vào tim mạch, huyết áp, chuyển hóa… Phòng và tránh trầm cảm, stress không khó. Chị em nên chia sẻ với bạn bè, người thân, chồng… những suy nghĩ, lo lắng của mình để sớm tìm ra cách giải quyết ổn thỏa nhất. Nên dành thời gian để thư giãn, giải trí nhằm lấy lại cân bằng tinh thần trong cuộc sống.

U xơ tử cung: Cứ 4-5 phụ nữ trong độ tuổi trên 35 lại có 1 người bị u xơ tử cung. Một người có thể có 1 hoặc nhiều u xơ cùng lúc trên tử cung. Đây là một loại khối u của tử cung có hiện tượng trong thời kỳ sinh đẻ. Nó không làm tăng nguy cơ ung thư tử cung và gần như không tiến triển thành ung thư.

Hiện nay, nguyên nhân gây u xơ tử cung vẫn chưa được biết rõ. Các nhân tố sau đây được xem là thủ phạm dẫn tới u xơ tử cung: di truyền; ảnh hưởng của nội tiết tố như progesterone, estrogen; đặc biệt là estrogen vì u xơ có xu thế phát triển suốt trong giai đoạn sinh đẻ và phát triển rất nhanh trong thai kỳ khi nồng độ estrogen nâng cao cao nhất, sau mãn kinh khối u xơ thường thu nhỏ lại do nồng độ estrogen suy giảm.

U xơ tử cung ít gây khó chịu và hiếm lúc cần được điều trị. Nếu khối u gây đau chói đột ngột vùng chậu thì cần phải được điều trị cấp cứu, dù biến chứng này hiếm xảy ra. Người ta có thể dùng thuốc hoặc phẫu thuật để làm giảm kích thước hoặc cắt bỏ hoàn toàn khối u.  

  BS. Trần Thanh Hạnh

No comments:

Post a Comment