Sunday, December 31, 2000

Chăm sóc trẻ bị viêm da dị ứng

Thời tiết lạnh và khô hanh là điều kiện thuận tiện cho bệnh viêm da dị ứng tại trẻ nhỏ phát triển. Đây là bệnh lý ngoài da phổ biến nhất ở trẻ em, 1 dạng viêm da mạn tính, tái phát, ngứa dữ dội xảy ra ở những trẻ có làn da nhạy cảm, khi các ứng dụng bảo vệ da trở nên yếu ớt.

Bệnh thường bắt đầu trong năm đầu đời và có tới 85% trẻ mắc bệnh tiếp diễn tới 5 tuổi. Thực tế trong chăm sóc bệnh, cha mẹ và người thân thường tự điều trị theo kinh nghiệm như đắp lá cây, hoa giã nát hoặc hạt đậu nghiền lại kiêng nước cữ gió làm bệnh nặng và có những biến chứng nguy hiểm.

Ở giai đoạn sơ sinh bệnh thường gọi là lác sữa, tính từ lúc 1 - 6 tháng tuổi và kéo dài đến 2 - 3 năm. Đặc trưng bởi những đốm da đỏ sẩn nước, sau đó rỉ nước và đóng vảy. Phân bố trên má, trán, da đầu, thân người, nếp duỗi ở chân tay và thường đối xứng 2 bên. Ngứa dữ dội là dấu hiệu cấp thiết có thể thấy được qua tình trạng trẻ bị kích thích, cào da đến chảy nước và chà vào những đồ vật gần đó. Gãi ngứa không cầm được thường xảy ra ban đêm khi trẻ ngủ. Để trẻ gãi ngứa nhiều gây xước da, hoặc tự điều trị không đúng sẽ dẫn đến biến chứng nhiễm trùng làm vết thương trở nên đau nhức, chảy máu và hóa mủ, trẻ sốt cao do nhiễm trùng huyết rất nguy hiểm.

Chính vì vậy, nhân viên y tế thôn bản cần hướng dẫn để các bậc cha mẹ và người thân của trẻ biết được chăm sóc ở nhà phù hợp rất cấp thiết để giúp trẻ dễ chịu, mau lành và tránh những biến chứng nguy hiểm. Cách chăm sóc bao gồm những bước sau

- Làm sạch da: Tắm rửa trẻ hàng ngày, lau mặt bằng khăn nhúng nước ấm. Ngâm vùng da tổn thương nặng trong nước ấm 15 - 20 phút, sau đó lau khô nhanh và lập tức bôi chất làm ẩm để ngăn cản tình trạng bốc hơi làm khô da. Ngâm da 1-3 lần/ngày tùy độ nặng của bệnh

- Bôi chất làm ẩm: Để duy trì độ ẩm ở da suốt cả ngày cần bôi các chất làm ẩm dạng dung dịch, dầu, kem hoặc thuốc mỡ theo hướng dẫn của y tế ngay sau lúc tắm. Thời tiết khô hanh nên chọn loại thuốc mỡ vì thành phần có ít tá dược nhất và tác dụng kết dính nhiều hơn

- Giảm ngứa và kích ứng: Duy trì giấc ngủ thông thường và ổn định tâm lý trẻ vì stress cũng là 1 nguyên nhân dẫn tới thói quen gãi ngứa ở trẻ. Cắt móng tay cho trẻ, mang bao tay, tất ban đêm để tránh tổn thương da do gãi ngứa. Tránh sử dụng chất tẩy rửa, hóa chất, xà phòng, cồn, và các sản phẩm chăm sóc da. Chọn quần áo thấm mồ hôi. Tránh những thức ăn dị ứng. Không cho trẻ chơi dưới đất, không chơi với súc vật hay thú nhồi bông

- Chỉ bôi thuốc theo chỉ định của bác sĩ, lưu ý không pha trộn hay bôi cùng với chất làm ẩm vì sẽ làm giảm hiệu quả điều trị

Đưa trẻ tới địa chỉ y tế lúc có dấu hiệu sốt, ngứa nhiều phải thức giấc ban đêm, tổn thương da trở thành đỏ hơn và chảy máu, có mủ, đóng vảy màu vàng, hoặc nếu như tổn thương da không giảm sau một tuần để được khám và điều trị kịp thời.         

BS. Kim Thoa

Trẻ rối loạn giấc ngủ: Người lớn cần thay đổi hành vi

Những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, trẻ bị rối loạn giấc ngủ đang có chiều hướng gia tăng. Điều này dẫn đến sức khỏe cũng như trí tuệ của trẻ suy giảm, bị đe dọa nghiêm trọng. Điều đáng nói là việc trẻ bị rối loạn giấc ngủ phần to là do sự vô ý của người lớn.

1001 lý do

Bé Phương (gần 30 tháng tuổi) mấy đêm này thường thức giấc vào khi nửa đêm, có khi 1 - hai giờ sáng, khóc, la hét và tay chân đập thình thịch xuống giường. Mẹ dỗ mãi không được, nghĩ cu cậu nhõng nhẽo nên quát lên và đét vào mông 1 cái. Thế là cu cậu khóc càng dữ hơn. Mãi khoảng chục phút sau mới nín, rồi bé ngủ thiếp đi. Hiện tượng này lặp đi lặp lại mấy đêm liền, con mệt, ba mẹ cũng mệt, hàng xóm bị ảnh hưởng. Đưa chuyện này hỏi bác sĩ mới biết Phương bị rối loạn giấc ngủ. Nguyên nhân là cả tháng nay nó lần trước tiên tới trường (mầm non) và bị căng thẳng do không quen với môi trường mới, lo mẹ bỏ rơi…

 Những hình ảnh trên ti-vi có thể đi về giấc ngủ, gây khó ngủ cho trẻ.
Trường hợp tương tự như bé Phương rất nhiều. Chị Lan, một nhân viên văn phòng, kể rằng con chị phải mất tới 3 tháng mới hòa nhập được với trường mầm non và từ đó mới hết rối loạn giấc ngủ.

Có bé sợ đi học tới nỗi ngay thức thì nôn ọe khi vừa được bố mẹ mang tới cổng trường. Và buổi tối không thể ngủ yên giấc, có khi nửa đêm ngồi nhổm dậy nói năng lảm nhảm rồi khóc.

Bé Lâm (2 tuổi) trong mấy tháng liên tục đêm nào cũng khóc. Người gầy rộc đi. Bệnh tật kéo đến thường xuyên khiến bé càng yếu hơn. Và càng mất ngủ, bé càng quấy khóc dữ hơn. Bố mẹ phải đưa bé đi bệnh viện. Qua tìm hiểu, các bác sĩ mới biết vì hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ là công nhân nên tách con và gửi nó đi nhà trẻ khi mới một tháng tuổi. Bé Lâm thiếu thốn tình thương của cha mẹ, nên rơi vào trạng thái trầm cảm, lo lắng, mất phương hướng…

Tương tự, con của anh Hùng, chị Hương cũng được gửi cho nhà ngoại ở miền Tây lúc mới hơn một tuổi, để 2 vợ chồng lên TP.HCM đi làm công nhân. Bé ở với bà ngoại và nhớ mẹ nên đêm đêm khóc, la hét…

Bé Huân cũng là trường hợp vắng mẹ. Nhưng bé là đứa trẻ đã lên 4 nên sự chịu đựng mẹ vắng nhà đi làm cũng đở hơn những trẻ khác. Tuy nhiên, khi tại nhà, bé thường phải xem chung phim trên ti-vi cùng người giúp việc. Thay vì xem phim hoạt hình với liều lượng vừa phải, bé luôn căng mắt hồi hộp dõi theo những màn bạo lực cùng người giúp việc mê xem phim hành động. Một thời gian sau, bé Huân tối ngủ cứ ú ớ rồi khóc, la hét. Trong trường hợp này, các bác sĩ tâm lý cho biết, do Huân chưa phân biệt được cảnh trong phim và sự thực ngoài đời không như nhau nên lo lắng, sợ hãi cảnh đâm chém, bắn giết, có lúc đến tột độ. Sự sợ hãi đó kéo vào giấc ngủ của bé…

Thay đổi hành vi của người lớn

BS. Phạm Ngọc Thanh (trưởng đơn vị Tâm lý, BV. Nhi Đồng 1, TP. HCM) cho biết: “Khi điều trị cho những trẻ bị rối loạn giấc ngủ, chúng tôi thường hỗ trợ tư vấn tâm lý luôn cho bà mẹ, thậm chí cho cả ông bố”. BS. Thanh cho biết thêm, hiện BV. Nhi Đồng 1 hàng tháng phải điều trị cho khoảng 120 em bị rối loạn giấc ngủ, thường là tại thể nặng, xảy ra đã nhiều ngày, hoặc trẻ có hành vi bất thường như đập đầu về tường…

Thông thường, đứa trẻ bị stress là do bố mẹ chúng mang lại, khi họ cãi cọ nhau liên miên ngay trước mắt con mình. Trong trường hợp này, trẻ buồn và căng thẳng nhưng bố mẹ lại cho rằng chúng còn nhỏ nên chưa biết gì nên tiếp diễn “cuộc chiến” hơn thua.

Cũng có khi, người mẹ do nhiều lý do mà bị stress đã vô tình khiến con bị căng thẳng theo. BS. Thanh nói: “Trẻ rất cần hơi ấm của mẹ, ánh mắt, giọng nói, cử chỉ trìu mến của mẹ, và cả những lời hát ru ngọt ngào nữa… Thế nhưng nhiều bà mẹ tách con sớm, phó mặc chúng cho ông bà hay người giúp việc. Điều đó khiến trẻ bị stress trầm trọng và rối loạn giấc ngủ”. Cũng có khi do mẹ mong con mập nên vào đêm dựng con dậy cho bú dù nó đang ngủ rất ngon. Điều này khiến trẻ rối loạn giấc ngủ, đồng thời có thể gây nên tình trạng biếng ăn. Khi con đột nhiên khóc trong đêm, nhiều người cho rằng nó nhõng nhẽo liền quát nạt, hoặc phát về mông. Điều này càng làm cho trẻ bị căng thẳng và chứng bệnh trở thành trầm trọng hơn, khó điều trị hơn.

Trẻ mới tới trường rất dễ bị căng thẳng, dẫn tới rối loạn giấc ngủ vì chúng phải ở một môi trường xa lạ và có cảm giác lo sợ bố mẹ bỏ rơi chúng. Lúc này, bố mẹ cần cho con tập làm quen với trường lớp, có lúc hàng tuần, không nên vội phó mặc trẻ cho cô giáo sớm. Ở trường, ví dụ cô giáo nào quá nghiêm khắc cũng vô tình khiến trẻ bị căng thẳng, nhất là khi nó bị mắng hay đánh, hoặc nhìn thấy bạn trong lớp bị trừng phạt.

Nhiều khi trẻ đi học theo ý thích của người lớn. Thầy cô giáo không muốn trò có điểm kém ảnh hưởng tới thành tích chung của lớp, của trường nên ép trẻ học. Cha mẹ muốn con học nhiều năm kinh nghiệm và chuyên nghiệp đủ thứ từ văn, toán tới ngoại ngữ, vi tính... rồi bắt con giảm chơi tăng giờ học. Riết rồi đứa trẻ thiếu ngủ, mất ngủ rơi về tình trạng trầm cảm. Một vòng luẩn quẩn: trẻ thiếu ngủ, ngủ không ngon thường tiếp thu bài vở chậm. Và tương tự nó phải nâng cao giờ học khiến lại càng thiếu ngủ…

BS. Thanh nói, giấc ngủ rất nhu yếu không kém phần ăn uống, thậm chí là hơn. Vì giấc ngủ giúp con người hồi phục sức khỏe, tái tạo năng lượng, giúp phát triển trí não. Nhiều nghiên cứu cho thấy, khi trẻ ngủ đủ giấc thường thông minh hơn, tiếp thu bài vở rất tốt hơn trẻ thiếu ngủ. Những ông bố bà mẹ nói riêng và tất cả những người lớn nói chung cần chú ý tránh những tác động khiến trẻ rối loạn giấc ngủ.

(*) Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi.

NGUYỄN HƯNG

 

Phòng bệnh viêm tiểu phế quản ở trẻ em

Viêm tiểu phế quản (TPQ) là bệnh hô hấp cấp tính, rất hay gặp ở trẻ còn bú. Nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm sẽ cho kết quả tốt, những trường hợp nặng gây suy hô hấp có thể bị tử vong. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ cần có những hiểu biết vào bệnh để chăm sóc trẻ được rất tốt hơn.

Những biểu hiện khi trẻ bị viêm TPQ

Triệu chứng ban đầu thường thấy đặc biệt tình trạng trẻ ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3 – 5 ngày, trẻ ho ngày 1 nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở. Khi thăm khám thường thấy nhịp thở của trẻ nhanh, sốt vừa, có hiện tượng các cơn co kéo hô hấp, lồng ngực bị rút lõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém.

 Cho trẻ thở khí dung.
Các tiêu chuẩn lâm sàng khác cho thấy trong khí máu PaO2 giảm, PaCO2 tăng, có nhiễm toan hô hấp kèm theo, đây là những chỉ số đánh mức giá mức độ nặng của bệnh. Để phát hiện chính xác loại virus gây bệnh, cần phải phân lập hoặc nuôi cấy virus, bằng cách lấy dịch tiết khí phế quản hoặc trong tổ chức phổi hoặc phản ứng huyết thanh.

Cần lưu ý: lúc chẩn đoán bệnh cần phân biệt với các triệu chứng của viêm phế quản, viêm phổi do vi khuẩn hoặc virus, bệnh mềm sụn thanh khí quản, bệnh mạch máu, các khối u (chèn ép khí phế quản từ ngoài vào) hoặc tình trạng u mạch máu, hẹp khí quản gây tắc nghẽn đường hô hấp tại trong. Các bệnh như: trào ngược dạ dày thực quản, dị vật đường thở, khó thở thứ phát sau nhiễm virus... cũng cần phải phân biệt với viêm TPQ ở trẻ em.

Vì sao trẻ bị viêm TPQ?

Tác nhân làm cho trẻ bị viêm TPQ thường là do các virus như: virus hợp bào hô hấp (VRS), chiếm 30 - 50% các trường hợp mắc bệnh. Virus cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số trẻ bị viêm TPQ. Ngoài ra phải kể tới adenovirus với 10% số mắc.

Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virus hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao, do sức đề kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu, nhất là trẻ tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm do nhiễm virus trước đó như: viêm mũi họng, viêm amiđan, viêm VA... đều có nguy cơ dễ nhiễm bệnh ví dụ không được chăm sóc tốt. Các trường hợp trẻ bị bệnh tim bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh như: loạn sản phổi, mucoviscidose hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải viêm TPQ.

Các biến chứng thường gặp

Tất cả các trường hợp viêm TPQ tại trẻ nếu như không được chẩn đoán bệnh và điều trị tốt sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như: rối loạn chức năng hô hấp, có hiện tượng từng cơn khó thở ra tái phát, viêm TPQ lan tỏa. Nghiêm trọng hơn sẽ làm trẻ bị suy hô hấp cấp, tràn khí màng phổi, viêm phổi – trung thất, xẹp phổi và thậm chí tử vong.

Xử trí và phòng bệnh thế nào?

Đối với các thể thông thường, không có suy hô hấp thì ngay lúc về viện các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh như: ventolin, bricanyl, salbutamol. Kết hợp với vật lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm. Những trẻ sốt cao, nôn, thở nhanh phải bù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể trẻ. Cần cho trẻ dinh dưỡng đủ chất, cân nhắc cẩn thận trước khi dùng kháng sinh.

Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải dùng liệu pháp oxy, hút thông đường hô hấp trên, sử dụng thuốc giãn phế quản đường khí dung, truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biện pháp trên không nỗ lự tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ dùng kháng sinh lúc có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên sử dụng steriod cho trẻ.

Muốn phòng bệnh hiệu quả, các bà mẹ hãy cho trẻ bú sữa mẹ tới 2 tuổi, không để trẻ bị lạnh, giữ cho không gian sống của trẻ được trong lành, không cho trẻ tiếp xúc với khói bếp than, khói thuốc lá. Khi đi ra đường nên giữ ấm và bảo vệ đường hô hấp trên cho trẻ, có thể dùng nước muối sinh lý 0,9% nhỏ về mắt, mũi trẻ sau lúc đi chơi về. Những trẻ bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh càng nhất là lưu ý. Nếu trẻ có những biểu hiện bệnh như: sốt, ho, khó thở cần đưa ngay trẻ tới các chuyên khoa hô hấp để được điều trị đúng

TS. MINH TUẤN

Xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ em

Xuất huyết giảm tiểu cầu (XHGTC) là một bệnh lý hay gặp ở trẻ em, thường có diễn biến cấp tính. XHGTC tiên phát là bệnh gặp khá phổ biến ở trẻ em. Gần đây người ta đã chứng minh được cơ chế miễn dịch của bệnh lúc tìm thấy các kháng thể kháng lại tiểu cầu. Bệnh có thể gặp tại mọi lứa tuổi của trẻ em nhưng có thể phân thành 2 nhóm khác biệt: ở trẻ nhũ nhi và trẻ lớn.

 Hình ảnh xuất huyết giảm tiểu cầu trên da.
Vì sao tiểu cầu suy giảm?

Tiểu cầu là 1 trong 3 loại tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu). Tiểu cầu có kích thước rất nhỏ, từ một - 4mm, chúng được sinh ra tại tuỷ xương, từ các mẫu tiểu cầu. Chúng có chức năng nhu yếu trong cầm máu, nhờ các tính chất đặc thù như: tập trung thành từng đám dính chặt về thành mạch nơi bị tổn thương và thoái hoá chất nhày để giải phóng ra nhân tố gây đông máu. Tiểu cầu có vai trò cấp thiết trong quy trình cầm máu và bảo vệ thành mạch không bị rò rỉ. Khi số lượng tiểu cầu giảm thì quá trình này không được thực hiện và diễn ra tình trạng xuất huyết.

Có nhiều nguyên do gây ra giảm tiểu cầu nhưng tập trung nằm tại hai nhóm nguyên nhân lớn sau đây: tăng phá hủy tiểu cầu tại máu ngoại vi; giảm sinh tiểu cầu tại tủy xương.

Trong nhóm đầu tiên lại có gần như bệnh không như nhau như: đông máu trong lòng mạch cấp tính và mạn tính gây tiêu thụ lớn tiểu cầu, các u máu lớn ở các vị trí không giống của cơ thể, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm virut nặng gây giảm tiểu cầu... hoặc các bệnh có kháng thể kháng lại tế bào máu như tan máu tự miễn kèm theo giảm tiểu cầu, bệnh lupus ban đỏ... Trong nhóm này phải kể đến bệnh XHGTC tiên phát mà ngày nay nhiều tác nhái gọi đó là xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn mà chúng ta sẽ nói nhiều sau đây.

Trong nhóm thứ 2, gồm một số bệnh lý ở tủy xương gây giảm các mẫu tiểu cầu như bệnh suy tủy toàn bộ, suy 1 dòng mẫu tiểu cầu hay các bệnh ác tính tại tủy xương như ung thư di căn tủy, lơxêmi cấp... khi đó giảm tiểu cầu là tình trạng thứ phát do các bệnh chính gây ra.

XHGTC tiên phát là bệnh gặp khá phổ biến ở trẻ em. Gần đây người ta đã chứng minh được cơ chế miễn dịch của bệnh lúc tìm thấy các kháng thể kháng lại tiểu cầu. Bệnh có thể gặp tại mọi lứa tuổi của trẻ em nhưng có thể phân thành hai nhóm khác biệt: ở trẻ nhũ nhi và trẻ lớn.                  

Những biểu hiện của bệnh không nên bỏ qua

Bệnh thường có khởi phát từ từ, kín đáo với sự có hiện tượng của các nốt xuất huyết chấm đỏ hoặc bầm tím, hoặc xuất huyết do xây trầy xước nhẹ trên da, không kèm theo sốt, thiếu máu, sưng hạch hoặc các biểu hiện toàn thân khác. Các nốt xuất huyết có thể nằm ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, thường là không có tính chất đối xứng ở 2 chi. Các nốt hoặc mảng tụ máu có thể tự nhiên xuất hiện hoặc do va đập nhẹ, thường là ở chân tay, mặt. Những vết cào xước nhẹ tại cổ, thân mình, chân tay cũng gây ra những dải xuất huyết. Rất ít khi bệnh biểu hiện chảy máu nặng ngay từ đầu như chảy máu mũi, chân răng, xuất huyết tiêu hoá hay tiểu ra máu.

Nan giải khi bệnh chuyển mạn tính

XHGTC ở trẻ em thường có diễn biến cấp tính. Khoảng 70- 80% các trường hợp tiểu cầu trở lại bình thường sau một vài tuần tới 3 tháng lúc đã được điều trị. Chỉ 20% trở thành mạn tính, số lượng tiểu cầu thấp kéo dài hoặc tái diễn, mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp điều trị. Khi số lượng tiểu cầu giảm nặng cần có các biện pháp đề phòng chảy máu, nhất là là chảy máu ở phổi, não dễ gây tử vong cho người bệnh. Ở trẻ nhũ nhi, bệnh thường hồi phục nhanh chóng, có thể tự khỏi mà không cần điều trị đặc hiệu. Vì vậy việc cần yếu là đưa trẻ đến các chuyên khoa huyết học để khám và theo dõi, tránh tiêm các thuốc hoặc làm các thủ thuật gây chảy máu hoặc tụ máu thêm cho trẻ.

Nguyên tắc của điều trị XHGTC là dựa về cơ chế miễn dịch của bệnh. Corticosteroid được sử dụng như 1 thuốc kinh điển để điều trị XHGTC. Các thuốc ức chế miễn dịch khác cũng có thể được dùng để hỗ trợ hoặc thay thế lúc các tác dụng phụ của corticosteroid nặng nề. Gần đây, người ta đã ứng dụng các chất kháng lymphoB điều trị các thể XHGTC mạn tính, nhất là ở trẻ lớn. Trong các trường hợp có tiểu cầu giảm nặng, nguy cơ xuất huyết nội tạng hoặc não cao thì cần truyền tiểu cầu.

Đối với các trường hợp mạn tính thì việc điều trị còn rất nan giải. Những bệnh nhi này cần được theo dõi tốt, tránh các biến chứng do xuất huyết. Mặt khác cần hạn chế dùng corticosteroid liều cao, kéo dài làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Ở trẻ gái tới tuổi có kinh nguyệt thường có biểu hiện rong kinh, đôi khi gây thiếu máu nặng. Điều trị các trường hợp này cần sự phối hợp giữa huyết học với sản khoa và nội tiết.

TS. Dương Bá Trực

Xử lý tiêu chảy cấp ở trẻ em

Ngoài lý do trẻ mắc tiêu chảy do ăn phải thức ăn có chứa vi khuẩn hay do độc tố của vi khuẩn, trẻ còn có thể mắc tiêu chảy do virut như Rotavirus... Trẻ bị bệnh do tiếp xúc trực tiếp với nguồn chứa tác nhân gây bệnh theo đường phân - miệng hoặc bàn tay - miệng. Mùa hè chính là thời gian trẻ hay bị mắc bệnh so với các thời điểm khác trong năm.

Đặc điểm nhận biết: Nôn và tiêu chảy là các đặc điểm nổi bật của tiêu chảy cấp do Rotavirus. Nôn thường xuất hiện trước tiêu chảy 6 - 12 giờ và có thể kéo dài khoảng hai - 3 ngày. Trẻ nôn phần lớn vào ngày đầu và giảm bớt lúc bắt đầu đi tiêu chảy. Phân lỏng toàn nước, có lúc hoa cà hoa cải, có thể có nhầy mũi nhưng không có máu. Tiêu chảy ngày càng nâng cao trong vài ngày, sau đó giảm dần. Đa số các trẻ sẽ hết tiêu chảy sau 4 - 8 ngày. Tuy nhiên có thể có trẻ vẫn còn tiêu chảy đến hai tuần dù đã khỏe, chơi, đòi ăn trở lại. Trẻ có sốt vừa phải, đau bụng, có thể có ho và chảy mũi. Vì vừa bị ói và tiêu chảy nhiều, trẻ bị nhiễm Rotavirus rất dễ bị mất nước nếu không được chăm sóc thích hợp.  Biến chứng nguy hiểm và trầm trọng của bệnh là khô kiệt do mất nước và mất muối, dễ dẫn đến trụy mạch và tử vong nếu không được bù nước kịp thời. Các biểu hiện của mất nước bao gồm: khát nước, môi khô, lưỡi khô, da khô, đi tiểu ít, quấy khóc, kích thích. Khi thấy trẻ có các biểu hiện trên ngay tức khắc phải đưa trẻ tới bệnh viện ngay.

Xử trí tiêu chảy cấp do Rotavirus: Tiêu chảy cấp Rotavirus do virut gây ra, vì vậy kháng sinh không có tác dụng đối với bệnh. Ở thể nhẹ, không có biến chứng, bệnh thường tự khỏi sau 3 - 8 ngày. Việc điều trị bệnh chính yếu là đề phòng biến chứng mất nước, bù nước và muối khi trẻ bị mất nước.

 Lưu ý những điểm sau đây:

- Cho trẻ uống nhiều nước hơn bình thường. Có thể dùng nước đun sôi để nguội, nước canh rau, nước dừa tươi hoặc các chế phẩm bù nước và điện giải  bằng đường uống như oresol (ORS), hydrite, lưu ý dung dịch ORS có độ thẩm thấu thấp.

- Cho trẻ ăn đầy đủ chất dinh dưỡng như bình thường, phù hợp theo lứa tuổi của trẻ. Nên chia nhỏ bữa ăn làm nhiều lần, cho trẻ ăn bằng thìa vì trẻ dễ bị nôn. Nếu trẻ nôn, cho trẻ nghỉ một chút rồi cho ăn lại.

- Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, nếu như trẻ bú bình thì cần vệ sinh bình, núm vú và dụng cụ pha sữa kỹ trước mỗi cữ bú, sữa được pha theo số lượng như trẻ vẫn bú khi không bị tiêu chảy, không được pha loãng hơn, không nên đổi loại sữa khác. Tương tự như việc cho ăn, nên cho trẻ bú từng ít một, nhiều lần trong ngày.

- Theo dõi số lần đi ngoài, số lượng phân, màu phân, khả năng uống bù nước và ăn uống của trẻ.

- Theo dõi phát hiện các dấu hiệu mất nước để kịp thời đưa trẻ nhập viện.

- Tuyệt đối không dùng thuốc cầm tiêu chảy cho trẻ vì các thuốc này làm giảm nhu động ruột, làm liệt ruột khiến phân không được thải ra ngoài chứ không có tác dụng kháng virut - nguyên do gây nên tiêu chảy. Do đó trẻ vẫn tiếp diễn bị tiêu chảy, mà phân không được bài xuất ra ngoài, ứ đọng lại trong ruột gây trướng bụng, biến chứng nguy hiểm, thậm chí tử vong...

- Tránh kiêng khem quá mức như không cho trẻ uống sữa, chỉ cho trẻ ăn cháo trắng với muối sẽ khiến trẻ dễ bị bệnh nặng hơn.

Phòng bệnh tiêu chảy cấp tại trẻ: Rửa tay cho trẻ và người chăm sóc trẻ, rửa tay là cách rất tốt nhất để phòng bệnh. Khi trong gia đình có trẻ bị tiêu chảy, phân của trẻ bị tiêu chảy phải được thu gom xử lý tránh để tiếp xúc lây lan sang trẻ khác.     

ThS. Nguyễn Thanh Lâm

Nám da khi mang thai và cách khắc phục

Khi mang thai, phụ nữ thường bị nám da mặt, làm cho nhiều bà bầu mất tự tin lúc đi ra đường. Biện pháp nào để phòng chống nám là mối để ý chung của các bà bầu.

Nguyên nhân nám da

Trong thời gian mang thai, cơ thể phụ nữ có không ít biến đổi, rối loạn tại các cơ quan nội tạng như: da, đường tiêu hóa, tĩnh mạch, thần kinh, trong đó biến đổi vào nội tiết thường gây nhiều phiền muộn cho bà bầu, bởi nó để lại những hậu quả lâu dài trên làn da. Phần lớn, khi mang thai, da của phụ nữ trở thành xỉn màu, lỗ chân lông to, vùng chữ T bóng nhờn, môi thâm, vùng da tại gò má xuất hiện các vết nám...

 Nên hạn chế ra năng từ 9 giờ đến 16h
Nguyên nhân của hiện tượng trên là do nội tiết trong cơ thể trảo đổi làm rối loạn sắc tố da. Mặt khác, lúc mang thai, lượng hormone estrogen và progesteron tăng, cùng với lưu lượng máu tăng cao. Chính sự đánh tráo này kích thích việc hình thành các phân tử tyrosine (tiền hắc sắc tố melanin) nằm tại vùng sinh sản tế bào da bị oxy hóa. Đó là nguyên nhân trực tiếp gây nên căn bệnh nám da. Thêm nữa, thời gian nghỉ ở nhà nuôi con nhỏ của các bà mẹ thường gặp nhiều stress, mệt mỏi, bận rộn, sức khỏe giảm sút... Hiện tượng suy yếu này cũng là tác nhân khiến cho nám đậm màu hơn.

Phần lớn các vết nám da sẽ biến mất sau khi sinh. Sạm da lúc mang thai chỉ là một hiện tượng sinh lý thông thường, bà bầu không cần phải quá lo lắng, ảnh hưởng đến sức khỏe.

Khắc phục

Nám da lúc mang thai không đáng lo ngại nhiều. Phụ nữ có thể kết hợp nhiều biện pháp để giảm thiểu được nám da mà không ảnh hưởng tới thai nhi như: luôn giữ cho tâm trạng thoải mái, duy trì lối sống điều độ, vui tươi, giảm thiểu căng thẳng trong cuộc sống và công việc. Thường xuyên tập thể dục nhẹ nhàng để có sức khỏe tốt, đồng thời giúp điều tiết cho da thêm khỏe mạnh hồng hào. Nên ăn nhiều rau xanh, hoa quả, uống nhiều nước cũng là biện pháp tốt để chống lại hiện tượng nám da và giúp da sẽ giảm thiểu được vết nhăn. Tăng cường các loại thực phẩm chứa nhiều canxi, vitamin A, C và E có nhiều trong sữa, cà rốt, cam, chanh, đu đủ, gấc, giá đỗ, đậu nành là những loại có dưỡng chất giúp làm đẹp da, trẻ hóa làn da, chống nám. Tránh dùng những loại thực phẩm có hại cho làn da như: rượu, bia, thuốc lá, các loại thực phẩm cay, nóng.

Ngoài ra, để chống sạm da lúc mang thai, bà bầu nên hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nhất là về thời điểm từ 10h sáng đến 3h chiều vì đó là khi cường độ cực tím rất cao dễ làm cho da bị “tổn thương”.

Sử dụng mặt nạ

Việc dùng các mặt nạ tự nhiên để dưỡng da chống nám cũng là sự lựa chọn, giúp giảm thiểu được hiện tượng nám da và làm cho làn da bà bầu phát triển thành mịn màng. Tuy nhiên, Quan tâm chọn các mặt nạ không gây kích ứng cho da. Chị em có thể sử dụng một số loại mặt nạ sau:

Mặt nạ khoai tây: khoai tây rửa sạch, luộc chín nhừ rồi nghiền mịn. Bọc khoai tây đã nghiền mịn vào lớp khăn mỏng và đắp lên mặt. Sau 15 phút rửa mặt thật sạch với nước. Mặt nạ này có thể dùng một tuần 3 lần.

Mặt nạ lòng đỏ trứng gà: lấy lòng đỏ trứng gà, bỏ về bát cùng với một chút mật ong. Sau đó đánh quyện vào nhau. Dùng thìa tán đều ra mặt, đợi 25 phút sau ra rửa mặt thật sạch với nước. Mặt nạ này chỉ dùng được tuần 1 lần.

Lưu ý, phụ nữ mang bầu không nên ứng dụng các biện pháp chữa trị nám da hoặc dưỡng da bằng các loại mỹ phẩm nếu như không được sự hỗ trợ tư vấn của bác sĩ, vì rất có thể sẽ ảnh hưởng không rất tốt đến sự phát triển của thai nhi.

Mặt nạ dưa chuột: mặt nạ dưa chuột mát có tác dụng thanh lọc làn da, giúp se khít lỗ chân lông hiệu quả, tạo cảm giác thư thái. Bạn chỉ cần làm sạch dưa chuột, để cả vỏ và thái lát dưa chuột mỏng rồi đắp từng miếng lên mặt. Sau 15 phút rửa mặt thật sạch với nước.

Mặt nạ cà chua: cà chua chứa nhiều vitamin A, C, làm cho làn da thêm hồng hào. Cà chua có thể nghiền nhuyễn hoặc thái lát để đắp lên mặt. 15 phút sau, rửa lại mặt bằng nước sạch. Nám da mặt khi mang thai không đáng lo ngại, nếu như biết cách khắc phục thì có thể giảm nám, hoặc nám sẽ mờ dần sau khi sinh. Chị em nên chọn lựa một cách chăm sóc da thích hợp và nên hỏi ý kiến bác sĩ trước lúc sử dụng các biện pháp chăm sóc da trong thời gian nhất là này.

BS. THU PHƯƠNG

Chửa trứng và ung thư nhau thai

 Hình ảnh chửa trứng.
Chửa trứng là hiện tượng sản sinh quá mức của nhau thai (có người gọi là rau thai). Bình thường, nhau thai có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai trong thời kỳ thai nghén. Trong trường hợp chửa trứng, nhau thai trở nên khối không được kiểm soát. Đa số trường hợp không có bào thai, được gọi là "chửa trứng hoàn toàn", một số trường hợp có bào thai nhưng không sống được gọi là "chửa trứng bán phần".

Nguyên nhân của bệnh: Hiện nay chưa biết rõ nguyên nhân. Người ta nghĩ tới những khả năng sau: sai sót tại trứng, sai sót quy trình thụ tinh, bất thường tại dạ con, thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, axit folic, ca-rô-ten.

Do vậy, ăn uống đầy đủ các chất có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.

Các biểu hiện của chửa trứng và ung thư nhau thai:

- Chảy máu âm đạo,

- Ra dịch, các chất bất thường: các lông nhau hình quả nho,

- Đau bụng dưới,

- Nôn hoặc buồn nôn,

- Chảy dịch đầu vú bất thường,

- Bụng dưới to như có thai,

- Bụng không nhỏ lại sau khi sinh,

- Bệnh để muộn: khó thở, liệt, co giật.

Khi 1 phụ nữ có các biểu hiện trên nên đến khám tại trung tâm y tế để xác định. Khi đến địa chỉ y tế, thầy thuốc sẽ khám, siêu âm, thử máu trong đó có xét nghiệm HCG, thử nước tiểu, nạo buồng dạ con sau khi loại trừ thai bình thường, chụp Xquang phổi (và có thể làm thêm các chụp chiếu khác).

Phương pháp điều trị:

Đối với chửa trứng, thầy thuốc sẽ nạo sạch "trứng" với người có nhu cầu sinh con hoặc cắt tử cung đối với người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Sau lúc xử trí chửa trứng, người bệnh cần xét nghiệm máu, nước tiểu hai tuần/lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường. Tiếp theo sẽ thử nước tiểu 4 tuần/lần. Thời gian theo dõi 6 tháng. Ngoài ra trong các lần khám, thầy thuốc có thể siêu âm nếu thấy cần thiết.

Nếu bệnh phát triển thành chửa trứng xâm nhập hoặc ung thư nhau thai, thầy thuốc sẽ dùng các phương pháp chữa bệnh sau:

- Chữa bằng hoá chất: sử dụng thuốc để diệt ung thư.

- Chữa bằng phẫu thuật: tại 1 số trường hợp.

- Chữa bằng tia xạ: sử dụng tia phóng xạ để diệt ung thư, chỉ trong một số trường hợp.

Sau khi ra viện, bệnh nhân cần chú ý:

- Đi khám lại, thử máu, nước tiểu định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc.

- Với những người có mong muốn sinh con: Có biện pháp tránh thai ngay sau chữa bệnh; Có thai sau một năm từ ngày chữa bệnh, thử HCG vào tuần 6 và 10 của thai.

Chương trình tiêu chí quốc gia Phòng chống ung thư Bệnh viện K Trung ương

Ở châu u và Mỹ, cứ 2.000 trường hợp có thai gặp một trường hợp chửa trứng. Ở các nước châu Á, cứ 500 người có thai gặp một người chửa trứng. Tuổi thường gặp từ 20 - 40 tuổi.

Gọi là chửa trứng vì trong dạ con có không ít nang trông như các quả trứng hoặc chùm nho do các lông nhau thai sinh sôi và căng phồng. Khoảng 80% chửa trứng là lành tính, bệnh khỏi sau lúc nạo (hoặc cắt dạ con tại người không có nhu cầu sinh đẻ nữa). Khoảng 10 - 15% chửa trứng trở nên loại xâm nhập, bệnh ăn sâu về thành dạ con, gây chảy máu và các phiền phức khác.

Khoảng 2 - 3% chửa trứng trở thành ung thư nhau thai, bệnh phát triển nhanh, lan rộng, di chuyển tới các nơi khác như phổi, não... gọi là di căn.

TS. Bùi Diệu (GĐ Bệnh viện K)

Trẻ bị `cứt trâu` chữa như thế nào?

Có nhiều trẻ mới sinh hoặc được vài tháng tuổi có không ít "cứt trâu", biểu hiện là những mảng sừng rất dày trên da đầu gây ngứa ngáy, khó chịu. Có trường hợp mỗi khi tắm gội chịu khó kỳ cọ cho trẻ dần dần sẽ hết. Nhưng cũng có trường hợp trẻ không khỏi mà lớp sừng trên da đầu lại mọc dày hơn kèm theo rụng tóc, chảy nước vàng... khiến cha mẹ rất lo lắng không biết cách chữa như thế nào?

Trẻ em mới sinh, trên da đầu đặc biệt vùng thóp có những tảng vẩy da dầy màu nâu xám ta thường gọi là "cứt trâu ". Đó là những chất do tuyến bã nhờn tiết ra đọng khô lại có nhiệm vụ bảo vệ vùng thóp còn phập phồng.

Nếu cứt trâu thành lớp mỏng thì chỉ là hiện tượng sinh lý bình thường,không đáng ngại.Trẻ em càng lớn “cứt trâu” càng ít đi,đến 2-3 tuổi có thể hết hẳn.Nhưng cũng có trường hợp “cứt trâu” đóng thành từng tảng dày bết vào chân tóc, bóc lên thấy da đầu ở đó hơi đỏ ướt. “Cứt trâu” dày làm em bé ngứa ngáy phải gãi đầu có thể có những biến chứng nhiễm khuẩn nung mủ (chốc đầu), nổi đinh nhọt ở da đầu, vì cứt trâu là môi trường tốt cho vi khuẩn ngoài da (liên cầu, tụ cầu) phát triển. “Cứt trâu” nhiều có thể làm rụng tóc, thưa thớt hay từng đám vì chất nhờn tiết ra nhiều vít lỗ chân tóc gây rối loạn dinh dưỡng và làm rụng tóc.

Trẻ bị cứt trâu biểu hiện là lớp sừng dày trên da đầu.

Nếu “cứt trâu” ít, mỏng, Không nhất thiết chữa. Chỉ cần gội đầu bình thường  dần dần em bé lớn sẽ hết “cứt trâu”. Nếu cứt trâu thành từng tảng dầy như trường hợp của bé có thể áp dụng  1 trong các biện pháp sau:

Nếu lớp cứt trâu mỏng chỉ cần gội đầu thông thường dần dần sẽ hết.

-Vài ngày một lần bôi ít dầu parafin lên da đầu để vài giờ cho cứt trâu bở ra, sau đó gội bằng nước chanh loãng.Làm tương tự 3-5 lần lớp cứt trâu sẽ mỏng dần. Có thể bôi  một số thuốc kem, mỡ  như acid salicylic 2% (a-xít sa-li-si-líc), chlorocid 1% (cờ-lo-rô-xít), erythromycin 1% (r-ey-thờ-rô-my-xin), diprosalic (đi-prô-sa-líc), kết hợp gội đầu bằng nước chanh, bồ kết loãng, nước lá chè tươi. Khi gội hết sức nhẹ nhàng,tránh cào vò mạnh có thể làm da đầu bé sây sát sẽ biến chứng thành nung mủ, chốc lở, mụn nhọt...

Nếu đã thành biến chững chốc đầu, đinh nhọt nhất thiết phải đi khám tại thầy thuốc chuyên khoa để được hướng dẫn điều trị thích hợp.

Bác sĩ  Xuân Nguyệt

Trời lạnh, phòng bệnh tai mũi họng ở trẻ em

Sáng nay thứ 2 đầu tuần, vừa vào bộ phận làm việc, cô nhân viên tiếp tiếp nhân bệnh nhân kiểm tra thính lực đã thông báo ngay: “Hôm nay các bé trong lịch hẹn không đến được vì bị bệnh: ho, sổ mũi, sốt, cha mẹ các bé có gọi điện tới xin lịch kiểm tra thính lực vào ngày khác”. Mới có mấy ngày trời trở lạnh mà các bé đã bị bệnh tai mũi họng rồi.

Mũi và họng luôn tiếp xúc với môi trường bên ngoài vì qua đường mũi họng, không khí bên ngoài đi tới phổi. Đồng thời với việc phân phối oxy cho cơ thể qua phổi thì những tác nhân gây bệnh cũng theo về cơ thể. Trẻ em dưới 3 tuổi có thể bị viêm mũi họng một năm 3 - 4 lần, thường về những lúc thời tiết đánh tráo đột ngột.

 Cho bé mặc đủ ấm trong những ngày trời lạnh.
Nhiệt độ mấy ngày nay trở lạnh đột ngột khiến nhiều trẻ em, thậm chí cả người to không thích ứng và không bộ phận tránh kịp sẽ bị viêm tai mũi họng cấp.

Thông thường, trên 80% các trường hợp lúc đầu các bé chỉ bị viêm mũi họng do virút, sau đó vài ngày do cơ thể yếu sức đề kháng, các loại vi trùng khác có thể xâm nhập thêm làm bệnh trở nặng. Loại virút hay gặp nhất là Adenoidal pharyngeal Conjuntival, virút hợp bào hô hấp và vi khuẩn H.influenzae, phế cầu khuẩn.

Triệu chứng ban đầu, các bé thường bị: ho, sốt, nghẹt mũi một hoặc 2 bên, có thể có sốt cao (38 – 40o), quấy khóc, bỏ ăn… Các bé to đã biết nói có thể sẽ than đau họng, nghẹt mũi, ù tai, đau tai, nhức đầu…

Những ngày đầu mới bệnh thường là do virút vì vậy không cần uống kháng sinh, chính yếu là vệ sinh mũi họng cho bé. Nếu sốt từ 38,5o, nên cho uống hạ sốt như: paracetamol. Nếu bé chỉ ấm đầu (37 - 38,5o) lau bằng nước ấm, uống nhiều nước và ăn nhiều hoa quả.

Nếu không bị bội nhiễm, bệnh sẽ tự khỏi trong vòng từ 5 - 10 ngày. Nếu bé sốt cao 3 ngày liên tục, phải đưa bé đi bệnh viện khám để loại trừ bệnh sốt xuất huyết và xác định chuẩn xác bé bị nhiễm virút hay nhiễm trùng. Vì nhiễm trùng nếu không uống kháng sinh, bé sẽ không tự khỏi bệnh.

Trong trường hợp viêm mũi họng do vi khuẩn, cần dùng thêm kháng sinh như: amoxicilin, cloxacilin, các cephalosporin (cephalexin)… theo hướng dẫn của bác sĩ.

Để bộ phận bệnh trong những ngày thời tiết trở lạnh, nên cho bé mặc đồ ấm, chú ý giữ ấm phần cổ và chân. Nên xoa dầu khuynh diệp về lòng bàn chân và mang tất cho bé, xoa kỹ vùng huyệt dũng tuyền là chỗ lõm giữa hai gò nổi của ngón chân cái và những ngón còn lại.

BS.CKII. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

Chung sống hòa bình với hen suyễn

Mùa đông, cảnh vật u ám, tiết trời lạnh lẽo là nguyên do làm cho nhiều bệnh phát sinh hay nặng thêm. Trong đó, bệnh lý đường hô hấp là thường gặp nhất, nhất là là hen suyên (HS).

Như chúng ta đã biết, cho tới nay y học của cả thế giới chưa thể loại trừ được HS mà chỉ có thể kiểm soát được nó. Để có thể “chung sống hòa bình với HS”, ngoài việc điều trị dự bộ phận đầy đủ, người bệnh cần biết những dấu hiệu “báo trước” để tránh phải vào bệnh viện cấp cứu vì cơn HS cấp tính. Cơn HS cấp tính hiếm lúc nào diễn ra mà không có “báo trước”.

Người bị HS lâu năm thường có không ít kinh nghiệm để “dự đoán” cơn HS cấp. Tuy nhiên, không phải các dấu hiệu báo trước luôn giống nhau mà có thể thay đổi. Người mới bị HS sẽ ít có nhiều năm hoạt động kinh nghiệm vào vấn đề này. Do vậy, hiểu biết đầy đủ về các dấu hiệu báo trước này sẽ giúp ích cho người bệnh rất nhiều.

 Trẻ bị hen suyễn thở khí dung.
Các dấu hiệu cảnh báo sớm cơn HS cấp tính

- Dị ứng hay nhiễm virus đường hô hấp là các tác nhân kích hoạt 1 cơn HS cấp tính. Các dấu hiệu do dị ứng hay nhiễm virus đường hô hấp là: chảy nước mũi, chảy nước mắt hay đỏ, ngứa mắt, nhức đầu, ngứa ngáy châm chích ở cằm. Các dấu hiệu này thường là cảnh báo cơn HS cấp.

- Khó ngủ, cảm giác mệt mỏi.

- Xuất hiện quầng thâm mi mắt dưới và không thể tập thể dục như thường lệ.

Trước khi cơn HS xuất hiện, người bệnh thường thấy buồn rầu, ủ rũ. Ho dai dẳng

Ho là dấu hiệu của nhiều bệnh. Nhưng ho dai dẳng tại người bị HS thường là dấu hiệu nặng. Ho này thường là diễn ra về ban đêm làm người bệnh không thể ngủ được. Đôi khi ho dai dẳng cũng có thể xảy ra vào ban ngày. Ho thường là ho khan, nhưng thỉnh thoảng có thể ho có đàm.

Cần tránh tối đa việc dùng thuốc ho trong lúc này. Thuốc ho chẳng những không giúp gì cho người bệnh mà còn làm cho cơn HS nặng hơn.

Các trảo đổi vào chức năng phổi

Đo lưu lượng đỉnh ký có thể cảnh báo cơn HS cấp. Dĩ nhiên, cần biết lưu lượng đỉnh của mình lúc bình thường. Điều này cũng khó tại bệnh nhân Việt Nam, vì rất nhiều người bệnh không thực hiện đo lưu lượng đỉnh khi bình thường.

- Nếu lưu lượng đỉnh chỉ từ 50 - 80% so với lưu lượng đỉnh tốt nhất khi bình thường, rất có thể cơn HS cấp đã bắt đầu.

- Nếu lưu lượng đỉnh dưới 50% so với lưu lượng đỉnh tốt nhất lúc bình thường, cần đưa bệnh nhân về bệnh viện khẩn cấp.

Khó thở

Khi xảy ra cơn HS cấp tính, cơ trơn bao quanh phế quản và niêm mạc phế quản bị sưng phồng lên làm cho tình trạng thở phát triển thành khó khăn hơn nhiều.

Ngoài 2 yếu tố này, một số tình trạng khác sẽ làm cho tình trạng thở trở thành khó khăn hơn nữa:

- Sự tăng tiết đàm nhớt quá mức trong phế quản có thể làm cho phế quản bị bít tắc và vì vậy sự lưu thông của khí trong phổi sẽ trở thành khó khăn.

- Khí bị ứ lại trong phổi càng làm nặng thêm tình trạng khó thở.

Cần lưu ý rằng, trước lúc xảy ra khó thở, người bệnh có thể thấy dấu hiệu khò khè, nặng ngực. Khò khè là tiếng mà đôi lúc chính người bệnh nghe thấy. Nó giống như tiếng mèo rên và còn gọi là tiếng “cò cữ”. Nặng ngực là cảm giác như lồng ngực bị bóp chặt hoặc đôi khi là cảm giác đau ngực. Khi thấy khò khè hay nặng ngực, người bệnh cần dùng những thuốc xịt “cắt cơn” có sẵn (Ventolin, Bricanyl, Symbicort…) trước lúc đi khám bác sĩ sẽ giúp ngăn chặn cơn HS cấp tính.

Thay đổi tư thế

Khi bị khó thở, người bệnh có xu hướng nỗ lực làm sao cho thở được. Tư thế người bị HS thường sử dụng trong hoàn cảnh này là cúi người ra phía trước với hai vai hạ thấp. Tư thế này sẽ được “giữ lại” nhiều hơn lúc người bệnh khó thở nhiều hơn.

Các trảo đổi khác

Khi cơ thể không được đem tới oxygen đầy đủ, một loạt các trảo đổi có thể diễn ra là:

- Chán ăn.

- Mệt mỏi.

- Giảm các hoạt động, thậm chí nói chuyện một cách khó khăn, thường được gọi là nói “thều thào”.

- Không có khả năng thở ra hay hít vào.

- Thở ngắn.

- Lo lắng hoặc kích động.

- Ho liên tục không dừng.

- Mặt tái nhợt, vã mồ hôi.

Tóm lại, người bị HS khi chẳng may gặp phải các dấu hiệu này phải cải thiện làm sao “thoát ra” cho nhanh để có thể “chung sống hòa bình” với HS.

BS. NGUYỄN HOÀNG QU N

Món ăn cho trẻ còi xương

Biểu hiện lúc bị bệnh còi xương, trẻ thường quấy khóc, ngủ không yên giấc, giật mình, ra nhiều mồ hôi khi ngủ, rụng tóc vùng sau gáy tạo thành hình vành khăn, răng mọc chậm, chậm biết lẫy, biết bò, đi, đứng... Nếu trẻ không được chữa trị, bệnh sẽ gây ra biến đổi tại xương (thóp rộng và lâu kín, có các bướu trán, lồng ngực biến dạng, các đầu xương cổ tay, cổ chân bè ra... Trường hợp nặng để lại di chứng chuỗi hạt sườn, dô ức gà, chân vòng kiềng, chữ bát… Sau đây xin giới thiệu một số món ăn để các bà mẹ có thể chế biến cho con khi trẻ bị còi xương.

Bột chân cua: chân cua 300g, hạt sen 50g, đậu xanh 50g. Chọn lấy chân của những con cua khỏe, rửa sạch sấy khô tán thành một mịn. Hạt sen, đậu xanh đều tán thành bột. Các thứ trên trộn đều với nhau. Mỗi lần ăn sử dụng một thìa cà phê bột chân cua hòa vào nước cơm đặc hoặc nước cháo loãng, có thể thêm đường hay muối để ăn cho vừa miệng. Ngày ăn hai lần, cần ăn liền 15 – 20 ngày.

Cháo cá quả.
Cháo lòng đỏ trứng gà:

lòng đỏ trứng gà hai cái, gạo ngon 50g, bột gia vị vừa đủ. Trứng gà luộc chín, bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ, sấy khô tán bột. Gạo rang vàng tán thành bột. Cả hai thứ trộn đều, cho vào nồi, đổ nước vừa đủ đun cho cháo sôi kỹ, thêm bột gia vị về quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn khi đói ngày 1 lần. Cần ăn trong khoảng 20 – 30 ngày.

Cháo tôm: tôm 150g, gạo 50g, bột gia vị vừa đủ. Tôm rửa sạch, bóc vỏ và càng để riêng. Thịt tôm giã thật nhỏ. Vỏ, càng tôm sấy khô tán bột mịn. Gạo xay thành bột. Tất cả trộn đều, thêm bột gia vị, cho về nồi, đổ nước vừa đủ nấu thành cháo. Khi cháo chín cho bột ngọt quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần khi đói, ăn liền một tháng.

Cháo tôm.
Cháo táo tàu: táo tàu 5 quả, hà thủ ô 15g, ngưu tất 10g, gạo 50g, đường trắng 20g. Hà thủ ô, ngưu tất ngâm rượu vang 7 ngày sau đó sấy khô tán thành bột. Gạo xay thành bột, táo tàu bỏ hạt giã nhỏ lọc lấy 250ml nước. Cho bột hà thủ ô, ngưu tất, bột gạo vào đun lửa nhỏ, cháo sôi cho đường về quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày một lần khi đói. Cần ăn liền 20 – 30 ngày.

Cháo cá quả: cá quả một con (300g), rau cải xoong 30g, gạo 50g, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Chọn loại cá quả đầu bẹt, vảy tại bụng trắng, lưng đen, làm sạch cá bỏ nội tạng, đem hấp cách thủy cho chín, gỡ lấy thịt nạc ướp bột gia vị, xương cá giã nhỏ lọc lấy 200ml nước. Gạo xay thành bột, rau cải xoong rửa sạch thái thật nhỏ (có thể giã nhỏ rồi vắt lấy nước cho về cháo). Cho bột gạo vào nước cá, đun lửa nhỏ, cháo chín cho rau cải xoong, thịt cá, bột ngọt vào quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày hai lần, cần ăn 20 – 30 ngày  (có thể ăn cách ngày).

Rùa đen hấp.
Rùa hấp:

rùa đen một con (400g), hành khô 5g, gừng 2g, bột gia vị vừa đủ. Rùa đen rửa sạch, mổ bụng bỏ nội tạng. Hành, gừng giã nhỏ cùng với bột gia vị  cho về bụng rùa, đem hấp cách thủy. Cho trẻ ăn ngày 2 lần khi đói. Cần ăn 5 ngày, có thể cách 2 – 3 ngày ăn một ngày.       

 

  Lương y  Đình Thuấn

Mụn nang kê ở trẻ sơ sinh

Con tôi sau lúc sinh khoảng 1 tuần, trên mặt tự nhiên có hiện tượng các mụn đỏ như rôm, sau đó lan ra cả đầu và cổ. Xin bác sĩ cho biết con tôi bị bệnh gì, điều trị thế nào? (Cháu vẫn được tắm rửa hàng ngày, cháu ăn ngủ rất tốt).

            Hà Thị Huệ(Nghệ An)

Có tới 20% số bé sinh ra bị nang kê. Yếu tố gây ra nang kê (mụn trứng cá) ở trẻ sơ sinh có thể là những hormon mà trẻ nhận được từ mẹ, có thể là trẻ bị phì đại tuyến bã. Hiện tượng mọc mụn trứng cá ở trẻ sơ sinh xảy ra khá phổ biến. Mụn có thể xuất hiện ngay sau khi trẻ được sinh ra, nhưng thường thì xuất hiện vài tuần sau lúc sinh. Mụn thường xuất hiện ở trên má, đôi khi ở trên trán, cằm và lưng. Những đốm mụn nhỏ này có thể bị bao bọc bởi một vùng da hơi tấy đỏ. Chúng càng đỏ tấy hơn khi cơ thể bé nóng lên, hay lúc da bé bị kích thích lúc tiếp xúc với nước bọt, sữa mẹ hay các chất tẩy rửa. Thường thì mụn trứng cá ở trẻ sơ sinh sẽ biến mất chỉ trong vài tuần nhưng cũng có thể kéo dài đến vài tháng. Nếu trong vòng 3 tháng mụn vẫn chưa biến mất thì bạn nên cho con đi khám chuyên khoa da liễu. Trong thời gian bé bị mọc mụn không nên bôi bất kỳ loại kem hay thuốc gì lên mụn; cũng không nên chạm tay hay chà xát lên các đốm mụn, như thế rất mất vệ sinh và càng làm cho tình trạng trở nên xấu hơn. Trẻ vẫn cần được tắm rửa hàng ngày với nước sạch đun sôi để nguội và sữa tắm dưỡng ẩm dành cho trẻ sơ sinh. Sau khi tắm phải lau khô người cho trẻ.

BS. Thanh Lâm

Ngừa thai sau khi sinh và cho con bú

Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo, phụ nữ nên trì hoãn mang thai ít nhất hai năm sau khi sinh nhằm có lợi cho sức khỏe cả mẹ lẫn con. Trong thời gian này người mẹ có thời gian chăm sóc và nuôi dưỡng con được tốt. Để có được sự trì hoãn, người phụ nữ phải sử dụng phương pháp tránh thai.

Sau khi sinh cơ thể người phụ nữ trở về thông thường về tuần lễ thứ 6. Hiện tượng có kinh trở lại tùy thuộc về việc cho con bú hay không cho con bú. Phụ nữ cho con bú sự ra kinh từ tháng thứ 6 trở đi, ngược lại không cho con bú có thể có kinh trở lại về tuần lễ thứ 3 - 4 sau sinh, ban đầu là sự ra kinh non, sau 3 tháng vòng kinh ổn định. Hiện tượng trứng rụng có thể diễn ra trước khi có kinh.

 Ảnh minh họa
Phương pháp tránh thai mẹ cho con bú

Phương pháp tự nhiên đó là con bú vô kinh.

Cho con bú vô kinh là 1 phương pháp tránh thai mà tận dụng hiệu quả tránh thai tự nhiên của sữa (sữa mẹ). Người mẹ cho con bú làm gia nâng cao nồng độ prolactin. Khi prolactin tăng trong máu sẽ ngăn chặn sự rụng trứng và làm tương tự ngăn ngừa mang thai. Phụ nữ cho con bú hoàn toàn thường không rụng trứng trong ít nhất 6 tháng sau lúc sinh con và tiếp tục cho con bú trong 12 tháng sau lúc sinh con, không trở về rụng trứng (do đó bảo vệ khỏi mang thai) trong thời gian này.

Hiệu quả của phương pháp này theo Kennedy (1998) đạt 98% trong vòng 6 tháng trước nhất cho con bú. Cần khuyến khích các bà mẹ sau sinh cho con bú liền và tiếp diễn cho con bú hoàn toàn bú cả ngày lẫn đêm, trong vòng 12 tháng đầu đời của bé. Tuy nhiên phương pháp tự nhiên cho con bú vô kinh không áp dụng cho những trường hợp: mẹ nhiễm HIV, có HbsAg dương tính mà bé chưa được tiêm ngừa, nhiễm trùng tuyến vú; mẹ đang dùng thuốc mà có hại cho bé; mẹ có thai trở lại mà chưa thấy có kinh.

Phương pháp này cần kết hợp một phương pháp tránh thai khác khi: mẹ cho con bú không hoàn toàn nghĩa là ngày mẹ mắc đi làm; bé chỉ được bú mẹ khi tối và đêm, hay cho bú không thường xuyên; mẹ có kinh trở lại.

Các phương pháp khác

- Bao cao su: dùng ngay lập tức tại mọi thời điểm. Bao cao su có 2 loại, loại dành cho nam giới (thường dùng) và cho nữ giới (ít dùng). Ngoài ưu điểm ngừa thai, bao cao su còn ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục và không ảnh hưởng sữa mẹ.

- Vòng tránh thai: áp dụng lúc có kinh trở lại, thời điểm đặt vòng tránh thai về ngày thứ 3 hay thứ 4 của sự ra kinh. Vòng tránh thai có 2 loại: chứa đồng và loại chứa levonorgestrel. Vòng tránh thai có tác dụng 5 năm, không ảnh hưởng sữa mẹ. Nhược điểm của phương pháp này là không bộ phận tránh được sự lây nhiễm khi quan hệ.

- Thuốc ngừa thai chỉ có progestin: vận dụng khi có kinh trở lại, sử dụng viên thuốc trước tiên lúc có kinh và uống thường xuyên mỗi ngày một viên theo số thứ tự trên vỉ thuốc. Trên thị trường hiện nay, thuốc biệt dược Embevin 28 có hàm lượng desogestrel 0,075 mg/viên có tác dụng ngừa thai cao 97 - 98 %, không ảnh hưởng sữa mẹ. Thuốc ngừa thai không dùng được cho những bà mẹ dị ứng với thuốc, suy gan, suy thận bệnh lý về máu, viêm tắc tĩnh mạch. Không phòng tránh được các bệnh lây nhiễm. Ngoài ra còn dùng loại que cấy đơn thuần có progestin, thuốc có tác dụng kéo dài mỗi 3 tháng.

 Thuốc ngừa thai uống mỗi ngày theo thứ tự trên vỉ thuốc
- Dụng cụ ngăn cản sự thụ thai, bao gồm màng ngăn âm đạo hay mũ chụp cổ tử cung: các phương pháp cũng được vận dụng nhưng nhược điểm cần được đặt màng ngăn âm đạo hay đặt mũ chụp cổ tử cung trước khi quan hệ 10 phút.

- Thắt vòi trứng: đây là phương pháp đình sản, được vận dụng cho các bà mẹ không muốn sinh nữa. Phương pháp này vận dụng sau lúc sinh 24 giờ đầu hay 6 tuần lễ đầu sau sinh, là phương pháp phẫu thuật nhỏ, được thực bây giờ cửa hàng y tế chuyên khoa, không ảnh hưởng việc cho con bú.

Ngoài ra lý do nào đó mà việc cho con bú không thành, các bà mẹ có thể vận dụng ngay các phương pháp ngừa thai về tuần lễ thứ 6 sau khi sinh.

Có thể ứng dụng một trong 5 phương pháp ngừa thai nói trên. Trước khi quyết định các phương pháp ngừa thai, cần đi khám phụ khoa lại để được bác sĩ hỗ trợ tư vấn cụ thể.

BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN

Phòng cảm lạnh cho bé trong mùa hè

Mùa hè, trẻ rất dễ bị cảm lạnh, đặc biệt khi môi trường nóng lạnh bất thường do dùng quạt điện, máy lạnh. Đề phòng bệnh cảm lạnh cho bé, các bà mẹ cần lưu ý 1 số điều được nhắc dưới đây.

 ảnh minh họa
Cho bé hít thở không khí ngoài trời nhiều hơn

Sáng sớm với nắng nhẹ hoặc buổi chiều ít gió, mẹ nên cho bé ra ngoài trời để hít thở. Không khí trong lành và những hoạt động ngoài trời sẽ giúp bé tăng cường sức đề kháng với môi trường bên ngoài hơn.

Hạn chế đưa trẻ tới những nơi công cộng

Virút cảm lạnh có hơn 250 loài, chúng lây lan qua không khí. Nên giảm thiểu đưa bé đến những nơi công cộng để tránh lây phải các bệnh truyền nhiễm.

Chú ý đến nhiệt độ cơ thể bé

Điều này rất thiết yếu để kiểm tra sức khỏe cho bé. Nếu bé lạnh, khi mẹ chạm tay mình vào cơ thể bé sẽ thấy lạnh toát, nhất là phần lưng và ngực của bé. Khi đó mẹ cần nhanh chóng làm ấm cơ thể cho bé, bằng cách tăng nhiệt độ phòng, mặc thêm áo cho bé hoặc bôi lên cơ thể bé chút dầu khuynh diệp.

Không nên mặc quần áo cho bé dày quá hoặc mỏng quá. Trẻ cần mặc quần áo ít hơn so với người lớn. Mặc quần áo quá dày cho thể làm bé đổ nhiều mồ hôi trộm lúc ngủ rất dễ dẫn tới cảm lạnh.

Chú ý đến độ ẩm và thông gió phòng

Với trẻ nhỏ, niêm mạc mũi họng rất nhạy cảm. Nếu niêm mạc mũi của trẻ bị khô bởi không khí thì các loại virút cúm rất tiện dụng xâm nhập. Vì vậy, mẹ cần lưu ý duy trì độ ẩm trong nhà ở 60%. Ngoài ra, không khí bẩn sẽ kích thích niêm mạc, điều này gây ra do việc sử dụng máy điều hòa nhiệt độ thường xuyên. Vì vậy, tốt nhất sau mỗi 3 giờ, mẹ nên mở các cửa sổ để không khí lưu thông. Không nên quá lạm dụng máy điều hòa. Với những ngày thời tiết đẹp, mẹ cần mở cửa sổ để không khí trong nhà được lưu thông sẽ rất tốt cho sức khỏe bé.

Chế độ dinh dưỡng

Mẹ hãy tăng cường cho bé chế độ dinh dưỡng lành mạnh để nâng cao sức đề kháng. Cho bé ăn nhiều các loại rau xanh, trái cây giàu vitamin C, sữa chua. Không cho bé uống nước đá hay ăn các thực phẩm để tủ lạnh để bảo vệ cổ họng.Mỗi sáng, mẹ nên cho bé uống nước mật ong chanh và súc miệng bằng nước muối loãng mỗi tối để phòng ngừa đau họng. Hàng ngày, mẹ cho bé uống đủ lượng nước để phòng mất nước trong mùa hè có thể khiến cơ thể mệt mỏi.

BS. NGUYỄN NGỌC LAN

Nút ráy tai khô ở trẻ

Con trai tôi 6 tuổi, cháu có 2 nút ráy tai khô đặc kín cả hai bên, ảnh hưởng đến thính lực, thị lực và khả năng học tập của cháu. Gia đình đã đưa cháu đến các bộ phận khám, bệnh viện nhưng cháu đều không hợp tác, thường quẫy đạp la hét rất ghê. Bác sĩ viện Nhi chỉ định là phải gây mê tĩnh mạch mới có thể “làm việc” được với cậu này nhưng bây giờ cứ đi tới cổng bệnh viện là cháu khóc nhất quyết không vào. Tôi đã mua audiclean, Ray C xịt cho cháu đều. Nhưng nó chỉ làm cho cái lớp bên ngoài bở ra một chút, chứ không chui ra và để thuốc ngấm về bên trong. Tôi cũng định lấy ráy cho cháu lúc ngủ, nhưng mặc dù ngủ say đến mấy, mẹ cứ động vào trong tai là cựa quậy ngay. Mong bác sĩ giúp tôi, sắp về năm học rồi ạ...

(Phan Thi Nga - Hà Nội)

Không cần phải gây mê tĩnh mạch để lấy ráy tai đâu. Những trường hợp phải gây mê là dị vật lọt vào tai khó lấy và em bé không hợp tác, hơn 30 năm công tác tôi chưa thấy ai lại gây mê lấy ráy tai.

Chị có dùng thuốc mà chỉ “bở một ít lớp bên ngoài” là do chưa đủ thời gian cho thuốc ngấm. Theo tôi, chị nên thử sử dụng lại audiclean, 1 ngày em nhỏ nhiều lần (5, 6 lần) sau khi nhỏ chị đừng lau chùi gì cả mà cho bé nằm nghiêng khoảng 10 phút (tai mới nhỏ thuốc quay lên trần), sau đó đổi sang nhỏ tai kia cũng làm theo quá trình như vậy. Sau 3 ngày (trường hợp dễ) đến một tuần ráy tai kể cả tại trong sâu sẽ mềm. Có trường hợp ráy tai mềm có thể tự chảy ra ngoài, có trường hợp khó đến bác sĩ hút ra không đau đớn gì hết.

Con chị đã 6 tuổi là tuổi nghe và hiểu rồi, có lẽ lần trước nhất lấy làm trầy xước gây đau nên bé sợ. Chị để lâu lâu một chút khoảng sau 1 tuần, ráy tai vừa mềm dễ lấy mà bé cũng quên dần cảm giác đau lúc đó hãy bắt đầu lấy. Bệnh nhân của tôi, những trường hợp khó tôi đều làm như vậy, chị thử xem nhé. Nhớ là sau nhỏ tai không được chùi mà phải nằm nghiêng lâu để thuốc thấm sâu và ngày nào cũng nhỏ tai cho đến ngày lấy ráy tai (tự lấy hay đi bác sĩ). Tôi phải dặn vậy vì có một số người nhỏ 3 - 4 ngày đầu theo chỉ dẫn sau đó ngưng vài ngày mới tới khám ráy tai lại khô lại.

BS.CKII. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

Thuốc chữa chứng đái dầm

Chứng đái dầm hay “ướt giường ban đêm” là 1 bệnh lý của bàng quang. Khi chưa biết mình đái khi đang ngủ, do sự kiểm soát của vỏ não, hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm ở vùng cột sống lưng - thắt lưng - cùng cụt với cung phản xạ bài niệu không hoàn hảo.

Cần nhận ra chứng này là cơ năng hay thực tổn do dị tật, viêm nhiễm, khối u để có phương pháp điều trị thích hợp.

Nếu bệnh lý này gặp tại trẻ em từ 2 - 6 tuổi không cần thiết điều trị gì, chỉ hạn chế ăn nhiều canh và không uống nhiều nước trong bữa cơm tối.

Nếu diễn ra tại trẻ từ 6 - 12 tuổi, cha mẹ cần quan tâm hơn, giải thích ân cần và đánh thức trẻ dậy để đi tiểu vào khoảng một - 2 giờ đêm nhằm tạo phản xạ có điều kiện vào đi tiểu cho cháu. Có thể dùng đồng hồ báo thức cho biện pháp huấn luyện này.

Trong 1 số trường hợp đái dầm, vào nội khoa, các thuốc sau đây sẽ được các thầy thuốc chỉ định kê đơn:

Desmopressin:Là dẫn chất tổng hợp có cấu trúc hóa học tương tự như vasopressin, có tác dụng kháng lợi niệu. Thuốc có các dạng: nhỏ mũi, khí dung,viên, ống. Hiện nay trên thị trường có các biệt dược: adiuretin, desurin, minirin, minurin. Viên nén 0,1mg, 0,2mg.

Dùng thuốc vào ban đêm, trước khi ngủ.

Thuốc có các tác dụng không nguyện vọng như kích ứng niêm mạc mũi, chảy máu cam, co giật.

Không sử dụng thuốc cho trẻ dưới 6 tuổi.

Oxybutynin: Là thuốc kháng cholinergic có tác dụng chống co thắt mạnh. Thuốc có dạng uống siro và viên.

Không chỉ định dùng thuốc lúc có đái khó, nhược cơ, trẻ em dưới 5 tuổi.

Hiện nay có các biệt dược: cystin, dipan, ditropan, driptane. Viên 5mg.

Thuốc chống trầm cảm ba vòng:

- Amitriptylin với các biệt dược: amavil, amineurin, amylin, elavil, tryptanol, saroten. Viên nén 10mg. Nên uống vào ban đêm.

- Imipramin với các biệt dược: censtim, deprinol, dimipressin, efriranol, imidol, meripramin, toframil. Viên 10mg, 25mg.

Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng đều có các tác dụng không mong muốn: ngây ngất, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ.

Flavoxat hydrochlorid:Thuốc có tác dụng trên cơ trơn vùng cổ bàng quang.

Hiện ở có biệt dược genurin viên 200mg. Không chỉ định sử dụng thuốc lúc có bệnh đường ruột, phụ nữ có thai, bệnh nhân thiên đầu thống.

Tóm lại, điều trị chứng đái dầm rất công phu, cần có sự quan tâm nhiều của gia đình, 1 số trường hợp nên có sự trợ giúp của châm cứu, bấm huyệt và thuốc y học dân tộc.            

PGS.BS.Trần Văn Chất

Điều trị nấm candida sinh dục

Tôi năm nay 30 tuổi, đã lập gia đình, tôi thường xuyên bị nấm candiđa sinh dục. Vậy xin hỏi có cách nào chữa dứt điểm không, cần dùng thuốc gì? Nếu dùng lâu thì thuốc có độc cho gan thận không? Nghe nói thuốc chống nấm dạng uống có nguy hiểm lúc dùng cùng chung với thuốc chống ngứa, có đúng không?

(Ng. N. T. V. - Bến Tre)

Bệnh candida sinh dục, có tên khoa học là candida albican, bệnh gặp tại cả nam lẫn nữ. Đây không phải là 1 bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhưng sinh hoạt tình dục tạo điều kiện thuận lợi cho vi nấm phát triển.

Về điều trị, nhờ những tiến bộ của y học, nếu như chẩn đoán đúng là nấm candida sinh dục chỉ cần điều trị đúng thuốc, đủ liều là bệnh sẽ khỏi hoàn toàn, thuốc thường sử dụng bây giờ là fluconazole, sử dụng với liều 150mg uống 1 lần duy nhất. Hoặc dùng itraconazole uống với liều 200mg uống1 lần/ngày, uống trong 3 ngày, hoặc dùng với 200mg uống hai lần trong một ngày duy nhất. Đối với nữ, thường kết hợp với thuốc đặt âm đạo như miconazole 200mg, đặt một viên lúc đi ngủ trong 3 ngày hoặc clotrimazole 200mg, đặt 1 viên khi đi ngủ trong 3 ngày. Trường hợp bệnh mạn tính hoặc bị tái phát nhiều lần thì trước hết phải kiểm tra xem có bệnh đái tháo đường, các nguyên do gây suy giảm sức đề kháng và làm thuận tiện cho nấm phát triển như dùng kháng sinh kéo dài, corticoid, thuốc tránh thai có estrogen. Không mặc quần áo quá chật hay ẩm ướt. Đối với nam thường không cần thiết điều trị vì bệnh có thể tự khỏi, không những thế nếu như bị viêm bao quy đầu thì có thể bôi các kem chống nấm như ketoconazole, clotrimazole. Hầu hết các thuốc thuộc nhóm kháng sinh chống nấm, nhất là dạng uống đều có độc tính, chuyển hóa và đào thải qua gan thận, nên sử dụng cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Đặc biệt các thuốc chống nấm như ketoconazol, itraconazol… Tuyệt đối không được sử dụng chung với thuốc chống dị ứng gọi là kháng histamine như: astemizol, terfenadine… vì có nguy cơ gây tử vong do xoắn đỉnh.

BS. TRẦN GIANG

Chảy máu cam: Căn bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ

Chảy máu cam (hay chảy máu mũi) là căn bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ, ít gây hiểm nguy tới tính mạng, nhưng rất dễ làm trẻ và người nhà lo lắng, sợ hãi.

Mỗi ngày, có hàng trăm ca chảy máu cam tại trẻ được bố mẹ đưa tới bệnh viện, nhưng chỉ 6 đến 10% trong số đó cần ở lại bệnh viện điều trị.

Trẻ em thường bị chảy máu cam nhiều hơn người to do mạch máu mỏng và sát với niêm mạc mũi. Có phần lớn nguyên nhân gây ra hiện tượng này, không ngoại trừ nguyên nhân bệnh lý.


Chảy máu cam (hay chảy máu mũi) là căn bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ

Nóng trong người

Mũi là nơi đưa lượng khí về bên trong cơ thể. Do vậy, toàn bộ các nguyên do làm đánh tráo hoặc tổn thương khoang mũi đều dẫn đến việc chảy máu cam tại trẻ.

Chấn thương ở mũi: do tai nạn hay do va đập mạnh, đánh nhau. Khi bị tác dụng lực vào mũi, sẽ làm vỡ các mạch máu trong hốc mũi gây chảy máu và ví dụ nặng có thể gây mất máu với số lượng lớn, ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.

Nguyên nhân sinh lý thứ 2 rất thường gặp trong mùa hè, trẻ bị nóng trong người làm cho các mạch máu, cấu trúc trong lỗ mũi bị vỡ, gây ngứa ngáy. Trẻ em thường có tật hay ngoáy mũi vô tình làm vỡ mạch máu và chảy máu cam.

Có phải là bệnh lý?

Khi không có tác động gì mà bé chảy máu cam thì phụ huynh cần kiểm tra xem trẻ có bệnh lý gì vào máu không, bằng cách cho bé kiểm tra các xét nghiệm huyết học.

Theo BS Duy Long (khoa Huyết học BV Nhi Đồng 1), có phần nhiều trường hợp (nhất là bé trai) hay bị chảy máu cam, lúc đã bị thì rất lâu và khó cầm máu, khi đó có thể trẻ mắc bệnh hemophilie hoặc xuất huyết giảm tiểu cầu. Đây là 2 bệnh lý vào huyết học tương đối thường gặp tại trẻ nhỏ. Cần phải được xét nghiệm để chẩn đoán chuẩn xác và điều trị theo phác đồ phù hợp.

Nguyên nhân bệnh lý thứ hai là tình trạng viêm mũi ở trẻ, hiện tượng này làm cho lớp chất nhầy bảo vệ bề mặt niêm mạc mũi bị thương tổn, vì thế các mạch máu nằm ngay dưới đó và niêm mạc mũi cũng bị xước hoặc rách. Viêm mũi gây kích thích tạo ra các dịch rỉ viêm, gây đau, ngứa ngáy, khó chịu, làm trẻ càng cho tay vào mũi ngoáy, gây chảy máu.

Thêm một nguyên nhân rất hiểm nguy mà phụ huynh thường bỏ qua hoặc xem thường, đó là u xơ vòm mũi họng - 1 bệnh lý có thể gây tử vong và nhiều tai biến nghiêm trọng ví dụ không được điều trị kịp thời. Bệnh u xơ vòm mũi họng chỉ diễn ra ở trẻ em, thường gặp ở trẻ 6-15 tuổi, phần lớn là bé trai. Triệu chứng ban đầu là chảy máu cam, tái phát nhiều lần, số lượng máu chảy ngày càng nhiều.

Sau 1 thời gian, ví dụ không được điều trị, khối u sẽ phát triển to và trẻ có thêm nhiều triệu chứng khác như tắc mũi, ù tai. Trường hợp nặng, có thể dẫn tới tử vong. Điều mà các bác sĩ lo ngại nhất tại bệnh này là nguy cơ chảy máu ồ ạt lúc đụng vào khối u. Nếu can thiệp không khéo, máu từ khối u sẽ chảy dữ dội, khó cầm lại được. Không ít bệnh nhân đã tử vong trên bàn mổ hoặc trong giai đoạn thay gạc mũi sau phẫu thuật. Khối u càng to thì nguy cơ tử vong trong phẫu thuật của bệnh nhân sẽ càng cao.

Nếu được phát hiện sớm khi khối u còn nhỏ, bác sĩ sẽ áp dụng phương pháp phẫu thuật nội soi để cắt bỏ u 1 cách dễ dàng. Nhưng khi khối u đã lớn, bác sĩ phải cắt xương mặt để tiến vào hốc mũi gặt đi khối u, điều này vừa gây nguy hiểm vừa ảnh hưởng đến vấn đề thẩm mỹ cho trẻ.

Vì vậy, lúc thấy trẻ em (nhất là các bé trai) có triệu chứng chảy máu cam nhiều lần, lượng máu chảy ngày một lớn, cha mẹ nên đưa trẻ tới chuyên khoa tai mũi họng để khám và điều trị ngay, tránh để khối u phát triển lớn.

Xử lý khi chảy máu cam

Khi bị chảy máu cam, trẻ thường có tâm lý rất sợ hãi và hoảng loạn, vì vậy việc trước tiên là giúp trẻ quên đi nỗi sợ bằng cách kể một câu chuyện, hoặc xem tivi trong lúc chờ cầm máu. Sau đó, cho bé cúi đầu ra phía trước, dùng khăn tay hoặc bông gòn để bịt lỗ mũi ngăn không cho máu chảy ra. Giữ mũi của trẻ trong vòng 10 phút, nhớ để ý thời gian chính xác, đừng giữ lâu quá.

Tránh để cho bé ngửa đầu ra đằng sau trong lúc đang chảy máu cam. Làm như vậy sẽ khiến cho máu chảy xuống phía sau hốc mũi về bao tử và có thể gây khó chịu và ói mửa. Nếu sau 20 phút, máu trong mũi của trẻ vẫn không ngừng chảy, cần phải đưa bé tới bác sĩ ngay, tránh để bé mất nhiều máu, xây xẩm.

Bố mẹ cần thường xuyên cắt móng tay cho trẻ để tránh tổn thương mũi. Mùa nóng, cho bé ăn nhiều rau, hoa quả để tăng cường vitamin C, nhắc bé uống đủ nước để tránh bị nóng và khô niêm mạc.

Theo Phương Mai

Hội chứng đa nang buồng trứng

Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) có tên khoa học là polycystic ovary syndromme (PCOS), là rối loạn nội tiết thường gặp tại nữ giới, cũng là 1 trong những nguyên nhân chính gây ra vô sinh.

Ở nữ giới, có 1 buồng trứng ở mỗi bên của tử cung, hình bầu dục, màu trắng đục. Trong thời kỳ phôi thai, 2 buồng trứng có khoảng 6 triệu trứng non, sau lúc sinh ra đời còn lại khoảng 1 triệu, khi tới tuổi dậy thì chỉ còn khoảng 40 ngàn. Ở tuổi dậy thì, dưới tác dụng của hormone sinh sản, trứng phát triển theo mỗi chu kỳ, chín và rụng. Có khoảng 400 trứng là phát triển và hoàn tất chu kỳ để rụng trứng, các trứng còn lại thường teo nhỏ rồi thoái hóa theo tuổi già. Bên cạnh việc phát triển các nang noãn theo mỗi chu kỳ, buồng trứng còn có chức năng tạo ra các hormone để điều hòa chức năng sinh lý - sinh dục nữ, 1 vai trò hết sức quan trọng.

Nguyên nhân

HCBTĐN cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa rõ, nhưng có thể là do phối hợp của nhiều yếu tố, với biểu hiện thường gặp một số trong các triệu chứng như: béo phì kiểu bụng, vòng kinh không phóng noãn dưới dạng không đều hay không thường xuyên, dẫn tới chu kỳ kinh nguyệt bị rối loạn có thể vô kinh - thiểu kinh - đa kinh, rong kinh, nặng hơn nữa là tình trạng xuất huyết ở tử cung, tình trạng kháng insulin (đây là tình trạng đáp ứng kém của một số cơ quan so với thông thường với cùng một lượng insulin, gây tăng insulin trong máu và đái tháo đường týp II). Kháng insulin thường đi kèm với 1 loạt các rối loạn chuyển hóa khác, dẫn tới cao huyết áp, rối loạn lipid máu như: nâng cao triglyceride, nâng cao LDL, giảm HDL, tăng vòng bụng. Cường androgen ở phụ nữ HCBTĐN dẫn tới các triệu chứng như: rậm lông; phát triển ở những nơi như hai bên gò má, cằm, cổ ở giữa ngực và dưới rốn, mụn trứng cá, hói đầu, rụng tóc.

 Siêu âm là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán buồng trứng đa nang.
Chẩn đoán

Trên siêu âm có hình ảnh buồng trứng đa nang, có 12 nang kích thước từ 2 -9mm và tăng thể tích buồng trứng >10cm3, xét nghiệm máu thì LH > 10, tỷ lệ LH/FSH > 2, androgen (testosterone) > 2,5 nmol/l hay > 1,5ng/ml.

Về tình trạng sức khỏe, với nữ giới có HCBTĐN, theo các nhà khoa học thì dễ dẫn đến 1 số bệnh lý đi kèm như: cao huyết áp, đái tháo đường týp II, đái tháo đường trong thai kỳ, bệnh lý động mạch vành, ung thư nội mạc tử cung…

Về chẩn đoán, để giúp các nhà sản phụ khoa tiện lợi định bệnh, các nhà khoa học đã đưa ra 1 số tiêu chuẩn để chẩn đoán. Theo tiêu chuẩn châu u thì dựa trên triệu chứng chính là hình ảnh HCBTĐN là hình ảnh trên siêu âm và xem siêu âm là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán bệnh. Ở Việt Nam, ngoài hình ảnh trên siêu âm thì còn kết hợp thêm 1 hay nhiều các triệu chứng khác đi kèm. Ngày nay, để luôn tiện cho thống nhất chẩn đoán và điều trị thì các nhà y học dựa theo ESHRE ASRM Rotterdam Consesus 2003:

1. Tiêu chuẩn 1: kinh thưa hoặc vô kinh, chu kỳ kinh > 35 ngày, vô kinh > 6 tháng.

2. Tiêu chuẩn 2: cường androgen với biểu hiện rậm lông, mụn trứng cá.

3. Tiêu chuẩn 3: buồng trứng đa nang trên siêu âm, siêu âm ngày thứ 2 – 5 của chu kỳ kinh hoặc ngày thứ 3 của chu kỳ nhân tạo là có 12 nang kích thước từ hai - 9mm và tăng thể tích buồng trứng >10cm3, diễn tả ít nhất tại một buồng trứng.

Khi có xuất hiện 2/3 tiêu chuẩn trên thì được chẩn đoán là HCBTĐN.

Về điều trị

HCBTĐN là hội chứng phối hợp của nhiều rối loạn. HCBTĐN dẫn tới rối loạn rụng trứng như: kinh nguyệt không đều, thậm chí rong kinh, rối loạn gây cường androgen máu như: rậm lông, mọc râu, phì đại âm vật… Về lâu dài, tại những người HCBTĐN có thể bị đái tháo đường týp II, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, rối loạn lipid máu, đái tháo đường thai kỳ, ung thư nội mạc tử cung, đặc biệt là dễ vô sinh. Vì vậy, trong điều trị HCBTĐN tùy theo mục đích mà ta có cách điều trị khác nhau.

Về điều trị chứng vô sinh, nguyên do gây vô sinh ở HCBTĐN là rối loạn phóng noãn, gây ra tình trạng không rụng trứng bởi vậy mà gây vô sinh. Mục đích điều trị tại đây là phải gây được phóng noãn. Có phần nhiều cách điều trị để gây phóng noãn tại HCBTĐN. Về nội khoa, đầu tiên cần được giảm cân ở những người có thể trạng béo phì. Giảm cân để giảm mỡ, giảm đề kháng insulin; dùng metformin, với mục đích làm giảm đề kháng insulin, bằng cách giúp hoạt hóa các yếu tố vận chuyển glucose về trong tế bào gan và cơ, từ đó làm giảm tình trạng kháng insulin tại máu ngoại vi, giúp cân bằng nồng độ glucose trong máu. Ngoài ra metformin không làm nâng cao tiết insulin, do vậy không làm hạ đường huyết vì vậy mà an toàn với bệnh nhân HCBTĐN. Metformin giúp nỗ lự bệnh nhân HCBTĐN tái lập lại chu kỳ kinh nguyệt bình thường, nâng cao khả năng rụng trứng và có thai, giảm nguy cơ đái tháo đường; giảm nồng độ androgen trong máu, nỗ lự chu kỳ kinh nguyệt, từ đó nâng cao khả năng có thai. Có nghiên cứu cho thấy metformin được dùng cho bệnh nhân HCBTĐN trong 3 tháng đầu của thai kỳ có tác dụng làm giảm tỷ lệ sảy thai. Tuy nhiên cho tới nay cũng chưa ai chứng minh được tác hại của metformin với thai hoặc metformin an toàn với thai như thế nào. Cách dùng metformin cho phụ nữ vô sinh với liều 100mg - 1500mg/ngày, điều trị thường 4 - 6 tuần hoặc 3 tháng.

Về điều trị ngoại khoa, đã được vận dụng bằng các phương pháp như cắt góc buồng trứng, xẻ múi cam, và đã gây được phóng noãn cho bệnh nhân HCBTĐN. Tuy nhiên, với kỹ thuật đó có phần lớn nhược điểm không có lợi cho bệnh nhân như: tai biến phẫu thuật, dính sau mổ, gây suy buồng trứng sớm. Đến nay, người ta đã thay mới sang kỹ thuật đốt điểm buồng trứng qua phẫu thuật nội soi. Đây là 1 kỹ thuật mới tiến bộ và tỷ lệ gây được rụng trứng, có vòng kinh đều và có phóng noãn sau phẫu thuật. Hoặc sau phẫu thuật đốt điểm buồng trứng bệnh nhân có đáp ứng tốt hơn với thuốc kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, phương pháp điều trị ngoại khoa dù sao cũng là 1 phương pháp có tính xâm lấn, không thể tránh khỏi tỷ lệ biến chứng trong và sau phẫu thuật.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Biến chứng răng khôn

Răng khôn là chiếc răng nằm tại vị trí số 8 trên khung xương hàm, thường biến chứng trong thời gian mọc, gây ra nhiều vấn đề rắc rối, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống ví dụ không có sự can thiệp kịp thời.

Với 1 người bình thường, răng khôn thường mọc lúc 16 tuổi, đến 25 tuổi thì mọc hoàn chỉnh. Bên cạnh một số nhân tố về sức khỏe, điều kiện dinh dưỡng cũng ảnh hưởng đến quy trình phát triển của răng khôn.

 Khám răng cho trẻ tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình.  Ảnh: Quốc Nam
Trung bình 1 người sẽ có bốn chiếc răng khôn, 2 chiếc nằm ở hàm trên, 2 chiếc ở hàm dưới. Khi răng khôn Tiến hành mọc, sẽ gây nóng sốt, sưng viêm vùng nướu quanh chân răng. Tình trạng nặng có thể dẫn đến áp-xe má, ảnh hưởng tới thẩm mỹ khuôn mặt, nặng hơn nữa có thể rò ra ngoài má, buộc bệnh nhân phải phẫu thuật tái tạo lỗ rò. Răng khôn mọc trong thời gian dài mới hoàn chỉnh. Trong thời gian mọc sẽ gây đau làm bệnh nhân giảm vận động nhai thức ăn.

Theo các bác sĩ chuyên khoa, răng khôn không có chức năng nhai nên việc nhổ bỏ chỉ mất khoảng răng phát triển là cần thiết. Răng khôn mọc bình thường, không gây khó chịu thì không có khiếu nại gì, nhưng nhiều trường hợp răng mọc lệch, nằm nghiêng hoặc không mọc lên được, cần phải có sự can thiệp ngoại khoa ngay.

Khi nào nên nhổ bỏ răng khôn?

Theo các bác sĩ, răng khôn tại hàm dưới thường xảy ra tình trạng mọc lệch do răng sữa mọc muộn và rụng muộn. Mỗi người nên kiểm tra răng định kì 6 tháng/lần để theo dõi việc mọc răng khôn trong giai đoạn từ 16 tuổi trở đi.

Răng khôn không mọc lên được sẽ gây nóng sốt, sưng đỏ và khó nuốt thức ăn. Lúc này, bác sĩ chuyên khoa sẽ rạch nướu để răng phát triển, tuy nhiên thủ thuật này chỉ áp dụng khi chụp phim cho thấy răng mọc thẳng và bệnh nhân không muốn nhổ bỏ. Việc này sẽ giúp răng mọc nhanh hơn nhưng có nguy cơ nhiễm trùng nướu nếu bệnh nhân vệ sinh răng miệng không đúng cách

Răng khôn mọc lệch sẽ gây sâu răng bên cạnh, răng bị sâu nhiễm trùng dai dẳng trong một thời gian dài, bệnh nhân có thể đau hoặc không đau. Nhiễm trùng răng thường dẫn đến viêm tấy lan tỏa vùng sàn miệng, khi này bệnh nhân có các triệu chứng: sốt, ăn uống khó, mệt mỏi, kể cả mất ngủ. Răng khôn mọc lệch đâm về khung xương hàm dẫn tới đau vùng má, mang tai, vùng dưới hàm gây viêm mô tế bào, phá hủy xương hàm. Sự phá hủy xương hàm sẽ ảnh hưởng tới sức nhai rất lớn, buộc bệnh nhân phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật như tái tạo lại khung xương hàm đã mất, phẫu thuật implant (cắm ghép răng mới).

Để có 1 hàm răng khỏe đẹp nên nhai đều hai bên giúp khung xương phát triển bình thường, khám răng định kỳ 6 tháng/lần. Đối với răng khôn, việc tin tưởng lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, kịp thời rất quan trọng, mang lại nhiều lợi ích, ví dụ không sẽ tốn kém nhiều thời gian và có khi tổn hại cho sức khỏe.            

BS. Nguyễn Minh

Viêm khớp Still ở trẻ em

Con gái tôi 15 tuổi, cách nay một năm thì cháu bị đau khớp cổ chân phải và sau đó có uống thuốc điều trị tại nhiều nơi. Cuối cùng thì bác sĩ chẩn đoán bệnh Still. Xin cho biết về bệnh này, làm sao để phát hiện sớm bệnh? Bệnh điều trị có khỏi hoàn toàn được không?

(Trần Thị Loan - Tây Ninh)

Hiện nay, cơ chế mắc gây viêm khớp mãn tính ở thiếu niên vẫn còn chưa được biết rõ. Người ta chỉ ghi tiếp nhân sự hiện diện của một số kháng thể miễn dịch tùy theo thể bệnh: HLA B27 trong 90% các trường hợp viêm khớp cột sống ở trẻ em, kháng thể kháng nhân trong thể tổn thương ít khớp hay yếu tố thấp trong thể tổn thương nhiều khớp.

Viêm khớp Still là 1 trong 3 thể lâm sàng của bệnh viêm khớp mãn tính tại trẻ em. Biểu hiện của bệnh thường gặp là sốt dao động, mệt mỏi, đau nhức cơ toàn thân và các triệu chứng này không giảm lúc dùng aspirine liều thông thường. Trẻ có thể bị nổi mẩn đỏ tại thân mình và các gốc chi (90%) nhưng các mẩn đỏ này mất rất nhanh.

Triệu chứng viêm khớp có thể diễn ra ngay từ đầu hay sau vài ngày, thường là trẻ bị sưng đau các khớp cổ tay, gối và mắt cá chân cả hai bên. Các tổn thương khác cũng có thể gặp như trẻ bị nổi hạch, gan lách to, viêm đa màng như: tràn dịch màng phổi, viêm màng tim hay viêm cầu thận. Xét nghiệm cho thấy bạch cầu tăng đáng kể, cốt yếu là bạch cầu đa nhân trung tính, giảm tiểu cầu, thiếu máu. Người ta lưu ý tới hội chứng tăng động đại thực bào, vì đây là thể nặng với các triệu chứng sốt cao, gan lách to, triệu chứng viêm cận lâm sàng quan trọng. Trường hợp này nặng có thể tử vong, diễn ra do dùng thuốc (kháng viêm không steroide, muối vàng) hoặc do trẻ bị bội nhiễm virus kèm theo. Để có thể chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp thì ngay khi trẻ có triệu chứng viêm khớp với sưng, đỏ, nóng, đau phải đưa trẻ tới khám ở các chuyên gia khớp. Nếu điều trị sớm thì tiên lượng của bệnh tương đối rất tốt và cần được theo dõi lâu dài.

BS.CK2. ĐẶNG MINH TRÍ

Trẻ mắc bệnh tự kỷ do nhiễm hóa chất độc

Bệnh tự kỷ là 1 căn bệnh của trẻ em, xuất hiện rất sớm, lúc trẻ trên 12 tháng hoặc có lúc trẻ phát triển bình thường, rồi tự nhiên bị rối loạn các ứng dụng vào tâm lý, ngôn ngữ. Các nhà khoa học cho rằng có thể do nhiễm hóa chất độc hại nên trẻ mắc bệnh tự kỷ.

Bệnh tự kỷ được mô tả lần đầu tiên vào năm 1943, sau đó được nghiên cứu nhiều hơn, nhất là mấy năm sắp đây lúc các triệu chứng được tiêu chuẩn hóa chính xác hơn, giúp cho việc định bệnh thuận lợi. Biểu hiện bệnh khác biệt rất nhiều, có trẻ chỉ bị nhẹ vẫn có thể sinh hoạt, học hành sắp như bình thường. Nhưng có những trường hợp nặng làm cho trẻ không thể sinh hoạt, học tập được. Trong mấy năm sắp đây, số trẻ em bị bệnh tự kỷ gia nâng cao rất cao ở nhiều nước trên thế giới, có thể vì định bệnh chuẩn xác hơn. Một số nhà khoa học cho rằng nguyên nhân vì nạn ô nhiễm môi trường sống, ô nhiễm thực phẩm, nước uống, dụng cụ làm bếp nhiễm hóa chất đã làm cho căn bệnh này gia tăng. Đây là một khiếu nại hết sức cần thiết cần phải quan tâm thỏa đáng, vì cho tới nay vẫn chưa có thuốc chữa bệnh tự kỷ, việc điều trị chủ yếu phải sử dụng tâm lý trị liệu hết sức tốn kém và lâu dài.

 Không nên cho trẻ em chơi đồ chơi có chất phtalates vì có thể làm trẻ mắc bệnh tự kỷ.
Mẹ dùng mỹ phẩm, con mắc bệnh?

Nhóm nghiên cứu của bác sĩ Philip Landrigan thuộc Đại học Mt Sinai school of Medicine cho rằng, bệnh tự kỷ có thể bị gây ra bởi việc não bộ của bào thai bị nhiễm độc bởi 1 số hóa chất do người mẹ nhiễm phải khi mang thai, do thực phẩm bị ô nhiễm hóa chất hoặc những dụng cụ nấu bếp, việc bảo quản thực phẩm bị nhiễm độc bởi chất phtalates. Trước đây, y học đã khám phá ra một số trường hợp mắc bệnh tự kỷ ở những trẻ em mà người mẹ đã lỡ dùng phải 1 vài dược phẩm trong lúc mang thai như các thuốc thalidomid, misoprostol, valproic acid. Thai nhi thường bị nhiễm bệnh lúc bào thai được 3 tháng, là thời gian mà não bộ Tiến hành hình thành và nâng cao trưởng. Một số trường hợp dị tật bẩm sinh của não bộ cũng xảy ra lúc người mẹ đang mang thai bị mắc bệnh do siêu vi gây ra như chứng bệnh German measles hoặc nhiễm chất độc da cam. Gần đây, tại châu u và Hoa Kỳ, người ta đã cấm sử dụng một số hóa chất như acrylamid, bisphenol vì gây ra ung thư hoặc tổn hại cho thần kinh. Trong lúc hàng ngàn, hàng vạn trường hợp nhiễm độc các chất chì, thủy ngân, cadmium... đã được giới y học phát hiện, nhưng phải một thời gian khá lâu mới được xác nhận. Chất đang được nghiên cứu hiện nay là phtalates thường có trong nước hoa, keo xịt tóc, thuốc sơn móng tay, thuốc gội đầu, mỹ phẩm. Các đồ sử dụng như chai lọ, hộp đồ nhựa, bát đĩa bằng plastic để sử dụng trong các lò microwave cũng có chất phtalates. Những nghiên cứu trên phụ nữ mang thai có nồng độ phtalates cao trong nước tiểu thì tỷ lệ trẻ em bị bệnh tự kỷ cao hơn mức bình thường. Do đó, người ta khuyên rằng những bà mẹ đang mang thai chỉ nên dùng những loại mỹ phẩm được xác tiếp nhân là không có chất phtalates. 

Các dấu hiệu của trẻ mắc bệnh tự kỷ 

Các bậc cha mẹ khi chăm sóc con cái có thể phát hiện bệnh tự kỷ của trẻ dựa về các biểu hiện như sau: trẻ có những trở ngại về ngôn ngữ như chậm nói, sau 12 tháng vẫn chưa biết nói hoặc trở thành lầm lì, tránh giao tiếp với cha mẹ, anh em, bạn bè hoặc nói ra những câu vô nghĩa. Trở ngại vào đời sống xã hội: bệnh nặng thì có thể phát triển thành cô lập hoàn toàn, sống riêng rẽ, không nghe, không nhìn, không nói; còn bệnh nhẹ thì có thể biểu hiện là nhút nhát, e dè. Nhiều trẻ bị bệnh tự kỷ có những cử chỉ khác thường, máy móc, vô nghĩa như: gõ đập, múa may, lắc lư hoặc quậy phá lung tung bất thường. Hầu hết trẻ bị bệnh tự kỷ thường học rất kém, không bình thường và sau này phát triển thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Một số ít trẻ bị bệnh tự kỷ rất nặng, biểu hiện là tuy tâm trí gần như hoàn toàn tê liệt nhưng lại có một vài tài năng vô cùng xuất chúng về âm nhạc hay toán học. Những người này có khả năng làm được những bài toán cực kỳ phức tạp, đồng thời có 1 trí nhớ siêu phàm về các cuốn lịch cũng như thời tiết cả chục năm vào trước mà chỉ có máy điện toán cực mạnh mới làm nổi. Có một vài trường hợp các em không hề được học vào âm nhạc, điêu khắc, hội họa nhưng chỉ cần nghe qua 1 lần cũng có thể chơi được những bản nhạc cổ điển phức tạp nhất hoặc sáng tác được những tác phẩm nghệ thuật xuất chúng. Có những trường hợp trẻ em bị bệnh tự kỷ không biết đọc, chưa biết viết, nhưng có thể nhớ được cả 1 cuốn niên giám điện thoại sau lúc đọc qua 1 lần, đó là hiện tượng "idiot savant" được quay thành phim Rainman, nhưng tới nay khoa học vẫn chưa giải thích được những trường hợp lạ lùng này.

Khoảng 25% các trường hợp bị bệnh tự kỷ có nguyên nhân di truyền. Những gia đình có con em bị bệnh tự kỷ thì tỷ lệ cao hơn có thể lên đến 11%. Cha mẹ to tuổi mới sinh con cũng có tỷ lệ trẻ sinh ra bị mắc bệnh tự kỷ cao hơn. Hiện nay, các nhà khoa học y khoa đang nỗ lự nghiên cứu nhằm tìm ra những nguyên nhân gây bệnh để tìm cách phòng ngừa căn bệnh khó khăn và tôn kém trong điều trị này.

ThS. Minh Phát

Biến chứng viêm xoang ở trẻ em

Khi mới sinh ra trẻ đã có 2 xoang là xoang hàm và xoang sàng. Các xoang khác phát triển theo độ tuổi của trẻ. Trẻ em cũng có thể bị viêm xoang do vi khuẩn, virut, vi sinh vật... Nếu không được điều trị, viêm xoang có thể gây những biến chứng nặng nề.

Viêm phế quản mạn tính

Viêm xoang hàm và xoang sàng thường gây ra biến chứng này. Bệnh nhân không nhức đầu, không ngạt mũi mà đi khám vì ho, khạc ra đờm đôi khi cả máu, sốt nhẹ vào chiều, ăn kém ngon. Bệnh trước hết nghĩ đến là lao nhưng xét nghiệm đờm, chụp phổi, tốc độ máu lắng, BCG test... đều không có biểu hiện là lao. Tuy nhiên, khám tai mũi họng thấy mủ tại ngách giữa, Xquang thấy xoang mờ.

Viêm họng mạn tính

Bệnh nhân kêu đau họng, nuốt vướng do dòng mủ thường xuyên từ xoang chảy xuống họng. Ngoài ra các triệu chứng thường thấy là đầy bụng, ợ hơi, nghẹt thở, đánh trống ngực... Thường chẩn đoán nhầm là đau dạ dày. Khi khám tai mũi họng thấy mủ tại khe giữa, Xquang xoang mờ.

Nhức đầu

Đau dây thần kinh sinh ba. Nhức đầu là một triệu chứng của viêm xoang nhưng nhức đầu kéo dài sau khi viêm xoang đã ổn định thì đó là biến chứng. Thường bệnh nhân kêu đau vùng trán lan ra sau gáy. Mỗi lúc làm việc thì cơn nhức đầu tăng. Khi bơm thuốc cocain 60% về xoang bướm thì triệu chứng đau giảm, đó là đau dây thần kinh thứ phát sau viêm xoang.

Viêm dây thần kinh thị giác sau nhãn cầu

Bệnh nhân có thể bị viêm xoang cấp hoặc mạn tính. Bệnh do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có viêm xoang sau. Trong viêm xoang cấp tính thị lực sụt rất nhanh sau đó vài tuần tự nhiên hồi phục. Trong viêm xoang mạn tính thì cả 2 mắt đều mờ với các mức độ khác nhau. Bệnh nhân sợ ánh sáng chói, trước mắt như có màng sương che phủ. Có ám điểm trung tâm, không phân biệt được màu sắc rõ ràng. Thị lực và thị trường bị thu hẹp. Khám mũi xoang ít thấy mủ, chỉ thấy ít dịch nhầy chảy từ khe trên ra vòm mũi họng.

Viêm tấy ổ mắt - viêm mí mắt - viêm túi lệ

Viêm tấy ổ mắt: Ổ mắt bị bao vây bởi các xoang tại phía trong, dưới, trên. Giữa lớp xoang và ổ mắt là lớp xương mỏng nên dễ bị viêm nhiễm từ xoang lan vào. Biến chứng viêm ổ mắt sưng nề thường xuất hiện đột ngột. Bệnh nhân chảy mũi, ngạt mũi, nhức đầu, sau đó, mi mắt sưng, viêm nề màng tiếp hợp, lồi nhãn cầu, đau mắt. Các triệu chứng hết khi điều trị nội khoa.

Áp-xe mí mắt: Bệnh này là biến chứng của viêm xoang hồi viêm. Ổ áp-xe có thể khu trú tại mi trên (xoang trán, xoang sàng), tại mi dưới (xoang hàm). Mi mắt bị sưng to, nóng, đỏ, đau. Rãnh giữa mi mắt và gờ ổ mắt bị đầy. Màng tiếp hợp bị viêm đỏ, nề. Nhãn cầu di động bình thường. Khoảng 5 hôm sau túi mủ sẽ vỡ ở phần ba trong của mi mắt.

Viêm túi lệ: Xương lệ mỏng, có những lỗ thông với xoang sàng nên túi lệ rất dễ bị viêm. Ngoài ra viêm xoang hàm cũng có thể gây viêm túi lệ.

Triệu chứng biểu hiện là da vùng góc trong của mắt sưng đỏ, lan tới mí mắt và màng tiếp hợp. Bệnh nhân bị sốt và kêu đau nhức vùng mắt. Sau ba ngày hình thành ổ apxe rồi vỡ ra. Nếu không điều trị kịp thời có thể gây viêm túi lệ mạn tính.

Viêm tấy ổ mắt: Là viêm mủ tổ chức mỡ trong ổ mắt. Bệnh nhân đau nhói trong ổ mắt. Mí mắt sưng húp, màng tiếp hợp sưng phù nề đôi khi đỏ bầm, phình ra ngoài mi mắt, nhãn cầu lồi và không di động, thị lực sụt nhanh, đồng tử giãn, mất cảm giác giác mạc. Có thể gây biến chứng viêm tĩnh mạch hang, viêm thị thần kinh hậu nhãn cầu...

Viêm cốt tủy

Nguyên nhân thường do viêm tắc mạch máu tại xương trán, sọ. Bệnh Tiến hành tại xương trán và lan dần rộng ra các xương khác của sọ như xương thái dương, xương đỉnh... Bệnh nhân đau nhức ở xương trán sau đó thấy sưng 1 vùng xoang trán, hình thành ổ áp- xe. Rạch ổ áp-xe thấy xương trán bộc lộ màu xám, dễ chảy máu do viêm. Dưới lớp xương viêm nếu như sử dụng kìm cắt xương thấy mủ trong xương, dưới là lớp màng não cứng. Quá trình viêm có thể lan rộng ra các xương nếu như không điều trị kịp thời. Kháng sinh liều cao, phối hợp cho kết quả khả quan.

Viêm màng não

Viêm màng não có thể có hiện tượng tự phát hoặc sau phẫu thuật. Bên cạnh viêm màng não điển hình còn có thể viêm màng nhện. Trong thể này không có sự thay đổi của dịch não tủy, không sốt mà màng nhện và màng nuôi dính lại và tạo thành 1 lớp bọc chặt lấy dây thần kinh sọ gây đau đầu, mờ mắt, ù tai...

Viêm tắc tĩnh mạch hang

Có thể do viêm xoang bướm hay do viêm tấy ổ mắt gây ra. Bệnh bắt đầu một cách ồ ạt, sốt cao, rét run, nhức đầu, cứng gáy. Màng tiếp hợp bị phù nề, đỏ bầm, nhãn cầu lồi phía trước, kém di động, gai mắt nề. Các tĩnh mạch mí mắt và trán bị giãn (hiện tượng đầu Méduse). Bệnh thường lan nhanh ra hai bên mắt. Tiên lượng rất nặng, trước lúc có kháng sinh thì tỷ lệ tử vong rất cao.

Áp-xe não, viêm não

Vỏ não có thể bị viêm vùng tiếp xúc với thương tổn màng não, thương tổn xương. Quan trọng nhất là áp-xe đại não, thùy trán. Thay đổi tính tình có hiện tượng sớm. Các triệu chứng định khu như liệt ít xuất hiện. Hội chứng viêm nhiễm và nâng cao áp lực sọ não thường xuất hiện đầy đủ. Tiên lượng không tốt khi có áp-xe thùy trán. Thường phẫu thuật để giải quyết ổ viêm xoang sau đó chọc hút ổ áp-xe. Điều trị kháng sinh liều cao là cần thiết.

ThS. Phạm Thị Bích Thủy

(Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương)

Cần hiểu đúng về dưỡng thai

Cụm từ “dưỡng thai” có Xuất xứ từ niềm tin cho rằng một số thực phẩm hay 1 số thuốc có tác dụng bổ dưỡng cho thai. Điều này đúng nhưng chưa toàn diện vì dưỡng thai bao gồm nhiều biện pháp để giúp cho thai phát triển lành mạnh cả vào thể chất và tâm trí:

- Một chính sách dinh dưỡng đầy đủ và hợp lý cho người mẹ để thông qua hệ tuần hoàn nhau - thai cung cấp cho thai mọi chất cần thiết.

- Một cuộc sống không có stress (không ưu phiền, không bị bạo hành).

- Làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.

- Được kiểm soát rất tốt những bệnh lý đã có hay mới diễn ra trong khi có thai.

Chỉ 1 trong các nhân tố nói trên có khiếm khuyết cũng đã tác động không rất tốt tới thai.

Vì sao chế độ dinh dưỡng đủ của người mẹ mang thai lại có ý nghĩa dưỡng thai?

Nói đến dưỡng thai không nên hiểu chỉ là chính sách dinh dưỡng đem đến cho người mẹ trước và chỉ mất khoảng thai nghén mà cả sau lúc sinh. Đó là những yếu tố chính yếu giúp cho sự phát triển có chất lượng của thai và trẻ sơ sinh; 1 số chất dinh dưỡng còn có tác dụng giảm tỷ lệ bệnh và tử vong cho trẻ thông qua chế độ ăn của người mẹ.   

Mối liên quan giữa dinh dưỡng và thai nghén đã được chứng minh và tiếp nhân thấy, phụ nữ mang thai không ăn uống đầy đủ quá 8 tuần thì con sinh ra có tỷ lệ tử vong hay bệnh tật cao hơn những phụ nữ có chế độ ăn cân đối, vì trẻ sinh ra từ những bà mẹ được nuôi dưỡng tốt này không bị hạn chế về phát triển khi còn trong bụng mẹ.

Không chỉ những bệnh về thể chất có liên quan tới chính sách dinh dưỡng trước và trong khi có thai mà cả những bệnh tâm trí và những khuyết tật cũng là những nguy cơ lúc các bà mẹ thiếu dinh dưỡng - một tình trạng có thể làm cho trẻ dễ bị bệnh thoái hoá thần kinh (mà hệ luỵ có thể xảy ra là kém phát triển tâm trí). 

 Trong suốt quá trình mang thai, người mẹ cần phải mang đến đầy đủ chất dinh dưỡng.
Dưỡng thai cấp thiết từ khi nào?

Ngay từ lúc chuẩn bị có thai vì sự thiếu hụt folic acid gây ra khuyết tật ở ống thần kinh có thể diễn ra ngay cả khi người phụ nữ không biết mình có thai, do đó cần bổ sung sớm acid folic  (uống 400 microgram mỗi ngày) lúc có ý định  mang thai.

Khi mới thụ thai (gọi là phôi) và vài tuần sau đó là giai đoạn rất dễ bị tổn thương, đó là thời kỳ Tiến hành phát triển của các cơ quan và hệ thống của thai. Chính năng lượng để tạo nên hệ thống này là từ các chất dinh dưỡng lưu hành trong máu mẹ và từ nội mạc tử cung, vì thế dinh dưỡng đầy đủ lúc có thai có ý nghĩa quan trọng.

Cách thức dưỡng thai tốt

Để thai phát triển tốt, phụ nữ mang thai cần tăng thêm một số lượng calo khoảng 300 calo mỗi ngày (người phụ nữ lao động nặng mỗi ngày cần khoảng 2.800 calo). Một số phụ nữ có thai lại có xu thế “ăn cho 2 người”, như thế có thể bị tăng cân quá nhiều.

Mặc dù 1 chính sách ăn cân đối có thể đáp ứng phần nhiều những nhu cầu dinh dưỡng cho phụ nữ có thai, nhưng nhiều chuyên gia về dinh dưỡng vẫn khuyên sử dụng thêm vitamin, chất khoáng, đặc biệt là sắt và acid folic.

Sắt: Nhu cầu vào sắt lúc có thai nâng cao gấp đôi, từ 15 - 30mg mỗi ngày. Gan và thịt có màu đỏ phần nhiều chất sắt; không những thế có trong thịt gia cầm, cá, hoa quả, rau, ngũ cốc, trứng.

Acid folic: Có vai trò thiết yếu trong sự phát triển tế bào, đề phòng sảy thai, đẻ non, phong huyết tử cung - nhau. Nhiều loại rau quả có chứa acid folic, 300microgram mỗi ngày. Ngoài ra cũng cần bổ sung nhiều chất khác suốt thời kỳ mang thai như các loại vitamin, protein, magiê ví dụ có chỉ định của bác sĩ.

BS. Anh Xuân

Một số thực phẩm giàu chất béo dành cho trẻ nhỏ

Có 1 số thực phẩm giàu chất béo như: dầu, bơ, phô mai… chứa nhiều vi chất thiết yếu rất tốt cho sức khỏe của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, khi dùng chúng để chế biến món ăn, các bà mẹ cần lưu ý để không làm mất đi các dưỡng chất quý.

Phô mai

Phô mai là loại thực phẩm được xếp về nhóm sữa, rất giàu canxi và được hầu hết trẻ em ham mê bởi mùi vị thơm ngon. Chỉ cần cho trẻ ăn 1 – hai viên phô mai mỗi ngày sẽ cung cấp đủ lượng canxi nhu yếu cho cả ngày. Phô mai cũng là thực phẩm dễ biến đổi thành phần khi có nhiệt độ cao, vì vậy khi chế biến món ăn với phô mai cần hết sức lưu ý. Sau khi bột, cháo nấu xong mới cho phô mai vào, với liều lượng sao cho trẻ không thấy quá ngán.

Bơ là chất béo của sữa có chứa nhiều acid béo no. Bơ cũng đem tới nhiều vitamin A và D, rất tốt cho sự phát triển mắt và nâng cao chiều cao của cơ thể. Tuy vậy, chỉ nên cho trẻ dùng bơ khi bé từ 3 tuổi trở lên, tại tuổi ít hơn hệ tiêu hóa của bé còn yếu, khó hấp thụ bơ, dễ bị đầy bụng hoặc rối loạn tiêu hóa. Để cho trẻ dùng bơ, bạn có thể chế biến một số món ăn hàng ngày và cho thêm bơ vào, tương tự món ăn sẽ thơm ngon hơn. Cũng có thể cho sử dụng bơ như một gia vị để ăn cùng bánh mì, bánh pizza, giúp bé thấy ngon miệng hơn. Thế nhưng cần lưu ý, hạn chế ăn bơ lúc trẻ bị thừa cân, nhất là trong tình trạng béo phì.

Dầu thực vật các loại

Dầu ăn là một loại chất béo cần phải có cho sự tăng trưởng của trẻ. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyên nên cho vào bát bột ăn dặm của trẻ một muỗng dầu ăn.

Trên thị trường có phần nhiều loại dầu thực vật. Trong đó một số sản phẩm tốt cho bé là dầu nành, dầu ôliu, dầu hướng dương, dầu mè. Một số loại dầu ăn cũng góp phần làm nâng cao hương vị của món ăn, chẳng hạn dầu mè để lại hương vị khá hấp dẫn cho thực phẩm sau khi chế biến. Hiện nay, có các loại dầu được sản xuất riêng cho trẻ nhỏ, phù hợp với trẻ mới ăn dặm lúc hệ tiêu hóa chưa phát triển hoàn hảo.

Nhiều loại dầu thực vật cũng không chịu được nhiệt độ cao, đặc biệt là dầu ôliu, dầu mè, các loại dầu sản xuất riêng cho trẻ em. Vì thế, khi chế biến món ăn cho trẻ, nấu chín, tắt bếp mới bỏ dầu về để đảm bảo không mất các dưỡng chất trong dầu. Một số loại dầu ăn ví dụ đun tại nhiệt độ quá cao còn bị cháy khét, gây ra nhiều chất có hại cho cơ thể.

(Theo Times)

H.HUYỀN

Nhận biết thời điểm rụng trứng

Thời điểm lý tưởng nhất để thụ tinh là 2 - 3 ngày trước khi rụng trứng. Nếu biết mình sẽ rụng trứng, bạn sẽ chủ động và nâng cao cơ hội thụ thai (hoặc phòng ngừa mang thai, ví dụ bạn đang muốn tránh thai). Dưới đây là 3 cách để nhận ra lúc nào thời điểm rụng trứng xảy ra.

1. Đếm ngày

Nhận biết thời điểm rụng trứng giúp chủ động mang thai hoặc ngừa thai.

Cách dễ nhất để ước tính thời điểm bạn rụng trứng là đếm ngược lại. Đầu tiên, bạn cần phải xác định được ngày nào sẽ Tiến hành chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo của mình (trong trường hợp chu kỳ của bạn bất thường thì phương pháp này sẽ không hiệu quả).

Từ ngày đó, bạn đếm ngược lại 12 ngày và sau đó đếm ngược tiếp 4 ngày nữa. Trong vòng 5 ngày này, khả năng bạn rụng trứng là rất cao. Nếu bạn có chu kỳ 28 ngày thì có nhiều khả năng bạn sẽ rụng trứng vào ngày thứ 14 của chu kỳ (ngày 1 là ngày trước tiên của kỳ kinh nguyệt, ngày thứ 28 là ngày cuối cùng trước lúc bạn bắt đầu kỳ kinh nguyệt tiếp theo).

 

2. Theo dõi những tín hiệu của cơ thể

Theo dõi nhiệt độ cơ thể để nhận biết quy trình rụng trứng.

Để phát hiện thời điểm bạn rụng trứng cần theo dõi nhiệt độ cơ thể và quy trình tiết dịch âm đạo trong chu kỳ. Việc này vô cùng an toàn, tiết kiệm nhưng lại đòi hỏi bạn dành nhiều thời gian và công sức để hoàn thành.

Nhiệt độ cơ thể: Bạn sẽ không cảm nhận được sự thay đổi, nhưng vài ngày sau lúc rụng trứng, nhiệt độ cơ thể của bạn tăng lên đôi chút, tuy nhiên, sự chênh lệch này khá nhỏ và rất khó nhận biết. Bạn có thể phát hiện được trảo đổi nhiệt độ cơ thể bằng cách đo nhiệt độ về mỗi sáng.

m đạo: Thay đổi đáng kể nhất trong suốt chu kỳ mà bạn có thể nhận biết ngay chính là chất nhầy tại cổ tử cung tiết ra nhiều hơn. Đối với phần lớn thời gian trong tháng, bạn sẽ thấy nó ra ít và đôi lúc còn hơi khô. Nhưng về thời gian chuẩn bị rụng trứng, bạn sẽ thấy chất nhờn tiết ra nhiều hơn.

Nếu bạn Quan tâm đến những tín hiệu từ cơ thể và ghi lại chúng mỗi ngày, bạn có thể dựng 1 mô hình riêng, giúp bạn tự dự đoán lúc nào bạn sẽ đến kỳ rụng trứng tiếp theo.

3. Kiểm tra hàm lượng hormone của bạn

Thiết bị phát hiện trứng rụng.

Phương pháp chuẩn xác nhất để dự đoán thời điểm rụng trứng là kiểm tra hàm lượng hormone bằng một bộ dụng cụ dự báo rụng trứng (OPK).

Một bài kiểm tra nhỏ sẽ cho bạn kết quả chính xác trước ngày rụng trứng, giúp bạn có thời gian để lên kế hoạch sinh em bé. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi giá tiền cao và phải nhờ tới bác sĩ để thực hiện các bài kiểm tra.

Bác sĩ Hồng Nhung