Monday, January 1, 2001

Bệnh ngứa vùng kín

Tôi năm nay 26 tuổi, lặp gia đình hơn một tháng, tôi bị bệnh viêm nơi vùng kín, ngứa và thỉnh thoảng rát âm ỉ. Hiện tôi đang trong quá trình đặt thuốc, chữa trị. Tôi đang rất lo lắng, vì chưa biết sau lúc chữa trị dứt bệnh thì thời gian bao lâu chúng tôi mới có thể chăn gối trở lại?

(B. T. - Tp.HCM)

Qua thư em hỏi, với triệu chứng ngứa và thỉnh thoảng rát âm ỉ tại vùng kín là triệu chứng của nhiều bệnh như trùng roi có tên y khoa là trichomonas, nấm candida âm đạo, chàm âm hộ…

Ngày nay, nhờ những tiến bộ vượt bực của y học nên việc điều trị 1 số bệnh kể trên phát triển thành đơn giản hơn nhiều, như bệnh trùng roi chỉ cần uống 1 liều tinidazole tên biệt dược là fasigyn hay secnidazol (flagentyl) toàn bộ 2 loại trên đều dùng 2g uống 1 lần duy nhất; ví dụ do nấm candida âm đạo thì dùng fluconazole với tên biệt dược là funcan, flucomedil, fluconazol stada, diflucan…uống với 1 liều chỉ có 150mg…

Với tính chất như vậy, nên việc quan hệ vợ chồng cũng không phải lo lắng nhiều, sau điều trị một tuần là có thể quan hệ bình thường, nhưng tốt nhất là có hướng giải quyết phòng bệnh như sử dụng bao cao su đúng cách. Tuy nhiên, để phân biệt và điều trị đúng chỉ định, bạn cần được bác sĩ sản khoa hay da liễu khám và có chỉ định để sử dụng thuốc hợp lý. Chúc em thành công và luôn tự tin trong cuộc sống.

BS.CKI.TRẦN QUỐC LONG

Nhiễm độc thai nghén

Cháu mang thai được 5 tháng, sắp đây cháu thấy chân cháu bị phù, người mệt mỏi. Cháu được biết nếu như bị nhiễm độc thai nghén thì rất nguy hiểm đến tính mạng cả hai mẹ con. Rất mong bác sĩ giải đáp giúp cháu bệnh này.

Bùi Thị Nghĩa(Hòa Bình)

Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý xảy ra trong thời kỳ mang thai, nhất là khi thai phụ ở tháng thứ 5, những người mang thai con so, đa thai, đa ối. Nhiễm độc thai nghén từ nhẹ tới nặng. Dấu hiệu trước hết là chân bị phù nề, tăng cân nhanh và nhiều (0,5 - 1kg/tuần); huyết áp tăng; xét nghiệm nước tiểu thấy có albumin niệu. Nếu bạn bị nhiễm độc nhẹ thì không ảnh hưởng tới mẹ và thai nhi. Nhưng nếu như bị nhiễm độc nặng mà không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến co thắt mạch toàn thân, bị sản giật, thai nhi sẽ bị thiếu ôxy và dinh dưỡng... Để không bị nhiễm độc thai nghén, các bà mẹ khi mang thai phải kiểm tra và khám thai định kỳ, không làm việc quá sức khi mang thai; cần phải có chế độ dinh dưỡng hợp lý (bổ sung đường, đạm, vitamin, các chất vi lượng, uống bổ sung viên sắt, axid folic...) và chính sách nghỉ ngơi đúng mức.  Nếu thấy có dấu hiệu phù, lên cân quá nhanh hay các dấu hiệu bất thông thường phải đến ngay cửa hàng y tế để khám và điều trị kịp thời.

BS. Trần Phương Thu

Sinh mổ

Hiện nay, nhiều sản phụ chọn cách sinh mổ vì sợ đau đẻ, song song chủ động được thời gian, tránh cho người nhà và sản phụ những căng thẳng, mệt mỏi của quá trình chờ sinh. Tuy nhiên, theo các bác sĩ, sinh thường mới là “giải pháp tối ưu” cho cả mẹ và bé.

Sinh mổ lúc nào?

Các bác sĩ sẽ chỉ định sinh mổ trong trường hợp sản phụ gặp những vấn đề không thể sinh thường như: khung chậu hẹp, bất tương thích giữa đầu thai với khung chậu vì em bé quá to khoảng trên 4kg (đầu thai lớn hơn khung chậu sản phụ), mẹ mắc bệnh tim mạch, không đủ sức rặn hoặc tử cung không gò được để đẩy thai ra ngoài và biện pháp giục sinh đã thất bại... Ngoài ra, còn có trường hợp sinh khó buộc phải mổ: ngôi thai xoay ở tư thế bất thường ở cuối kì (ngôi mông, ngôi ngang...) nếu như không phẫu thuật sẽ nguy hiểm cho mẹ và bé; hoặc thai suy lúc đang chuyển dạ, nước ối không tốt... bác sĩ cũng sẽ quyết định cho sinh mổ để bảo đảm an toàn cho mẹ và bé.

 Chỉ sinh mổ khi có chỉ định của bác sĩ. Ảnh: Hồng Nga
Những nguy cơ của sinh mổ

Hiện không ít người mẹ quyết định phương pháp sinh mổ để chọn “ngày đẹp, giờ vàng” cho bé ra đời hoặc vì lý do sợ đau, sợ bị giãn âm đạo lúc sinh thường. Tuy nhiên, người mẹ phải hết sức thận trọng vì biện pháp sinh này có thể đưa lại những nguy cơ như:

- Sinh mổ sẽ tránh cho người mẹ những cơn đau lúc chuyển dạ, tuy nhiên, những thủ thuật sau đó lại khiến người mẹ bị đau hơn nhiều.

- Những nguy cơ khi sinh mổ như: tai biến lúc gây tê, vết mổ bị rách, chảy máu, tổn thương đường tiết niệu, nhiễm trùng, băng huyết... đe dọa trực tiếp tới sức khỏe người mẹ. Đặc biệt, nhiễm trùng mổ có khả năng gây hoại tử cổ tử cung. Nguy hiểm hơn, sinh mổ còn khiến người mẹ có thể bị tắc ruột, tắc ống dẫn trứng, gây vô sinh thứ phát.

Ngoài ra, sinh mổ cũng buộc người mẹ phải dùng kháng sinh trong khoảng thời gian cho bé bú sau đó. Điều này sẽ khiến chất lượng sữa của mẹ giảm sút, thậm chí còn ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe bé. Những bé sinh mổ có nguy cơ suy yếu hệ miễn dịch và hô hấp to hơn nhóm bé được sinh thường.

Sau mổ bao lâu có thể mang thai lại?

Những người đã sinh mổ là trường hợp gặp những vấn đề không thể sinh thường nên lần sinh sau thường cũng phải áp dụng biện pháp sinh mổ. Trong lần sinh sau bác sĩ vẫn sẽ thao tác trên vết mổ cũ nên ví dụ khoảng cách giữa 2 lần sinh quá sắp vết khâu sẽ không an toàn (rách, bung đường khâu...) hoặc thai to cũng sẽ làm rách, bục vết khâu của lần sinh trước. Đồng thời, các cơ quan nội tạng sẽ bị tác động tiếp diễn và làm gia nâng cao khả năng dính ruột, rất nguy hiểm. Những sản phụ phải sinh mổ chỉ nên sinh tối đa là hai lần, khoảng cách giữa 2 lần sinh là 5 năm để không ảnh hưởng tới sức khoẻ. Trong khoảng từ hai - 3 năm, nếu bị “nhỡ” thì có thể giữ lại nhưng để bảo đảm an toàn cho cả mẹ và con cần phải các bác sĩ chuyên khoa theo dõi chặt chẽ.

Hiện nay, các bệnh viện cũng đang triển khai thực hiện hướng giải quyết “đẻ không đau”. Thực chất đây chỉ là giảm đau sản khoa bằng cách tiêm thuốc tê về các khe trống giữa các đường dẫn tủy trong cột sống. Lúc này, sản phụ vẫn hoàn toàn tỉnh táo vì thuốc chỉ lan đến các dây thần kinh phía dưới cơ thể nên làm giảm cảm giác đau vùng này. Thai phụ duy nhất cảm giác đau nhẹ đủ để tạo sức rặn giúp tử cung gò đẩy thai ra ngoài. Phương pháp này cũng giúp các thai phụ giảm bớt cảm giác sợ những cơn đau đẻ.

Sinh thường bao giờ cũng rất tốt nhất cho cả mẹ và bé, nên trong những trường hợp không bắt buộc phải can thiệp phẫu thuật, bác sĩ vẫn khuyên các sản phụ nên chọn biện pháp sinh thường.

Bác sĩ  Nguyễn Thanh Thủy

Phòng bệnh viêm họng cấp ở trẻ em

Họng với nhiều chức năng sinh lý không như nhau như: nuốt, thở, phát âm, vị giác… là ngã tư đường ăn và đường thở, là cửa ngõ của không khí, thức ăn và nước uống, do đó là nơi rất thuận tiện cho virus, vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh, nhất là là viêm họng cấp tại trẻ em. Bệnh chiếm tỷ lệ bậc nhất trong số lần khám ở các phòng khám nhi khoa.

Viêm họng cấp tính là loại bệnh khá phổ biến

Nguyên nhân gây bệnh thường

xuất hiện do vi khuẩn như: phế cầu, liên cầu hoặc các vi khuẩn khác sẵn có ở họng hay virus gây nên như: virus cúm, sởi… Nguy hiểm hơn cả là do liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A gây nên, từ viêm họng dẫn đến biến chứng thấp tim, thấp khớp, viêm thận. Một số nguyên nhân khác cũng có thể làm cho trẻ em viêm họng như: do khói thuốc lá, do bụi bẩn, do không gian sống của bé không trong sạch, do bị dị ứng mãn tính, hay do nhiệt độ phòng ngủ của bé không thích hợp…

Về triệu chứng, viêm họng cấp thường khởi phát đột ngột, sốt cao 39 - 40oC, kèm theo đó là nuốt đau, rát họng, khàn tiếng có thể kèm theo các triệu chứng khác như: chảy nước mũi nhầy, tiếng nói khàn nhẹ và ho khan, trẻ mệt mỏi, môi khô, lưỡi bẩn, đặc biệt hay có viêm tấy hạch vùng cổ, hạch góc hàm sưng, đau… Với bé còn bú mẹ, viêm họng thường kèm theo bú ít hoặc bỏ bú, há miệng khi ngủ, bức rức khó chịu và quấy khóc. Với trẻ lớn hơn thường kêu đau vùng họng, chán ăn nên dễ làm cho cha mẹ nhầm tưởng rằng đó là những dấu hiệu khó chịu khi bé mọc răng…

Bệnh thường kéo dài từ 7 - 10 ngày là khỏi hẳn, nếu kéo dài hơn dễ gây nên các biến chứng, nhất là vào tuần thứ hai, thứ ba như: thấp khớp, thấp tim, viêm cầu thận cấp, bệnh viêm tấy quanh amiđan, viêm tai, viêm xoang, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm hạch mủ, nhiễm trùng huyết. Ở trẻ em, khi bị viêm họng cấp, ngoài những biến chứng kể trên, hiểm nguy đặc biệt có thể gây bệnh thấp tim, thấp khớp và viêm cầu thận ở trẻ em, do liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A, từ viêm họng kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể gây ảnh hưởng tới tim, khớp và cầu thận. Khi bị biến chứng viêm họng do liên cầu khuẩn, trẻ có các dấu hiệu sốt, đau họng, ho, tiếp đến là sưng, nóng các khớp, nhất là là sưng khớp gối, khớp khuỷu và chạy từ khớp này sang khớp khác. Sưng khớp và khớp di chuyển là 1 nhân tố cần thiết để nhận ra nguy cơ bị thấp tim tại bệnh nhân. Và một biến chứng phổ biến nhất là chuyển từ viêm họng cấp tính phát triển thành viêm họng mãn tính, đây là cơ hội để bệnh tái đi tái lại nhiều lần.

Về điều trị, với em bé dưới một tuổi lúc bị sốt, có thân nhiệt trên 38oC thì nên cần nhanh chóng được thăm khám, rất tốt nhất là bác sĩ chuyên khoa nhi, tránh tự ý điều trị, vì trẻ em sốt cao rất dễ đưa tới co giật, lau mát cho trẻ bằng nước ấm, tránh ủ nhiều quần áo, thực hiện đúng theo toa thuốc của bác sĩ, sau lúc uống thuốc theo toa vẫn chưa đỡ, sau 24 - 48 giờ, bệnh không thuyên giảm thì cần nhập viện để theo dõi và điều trị.

Phòng bệnh được không?

Ông cha ta có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” vì vậy, cần có phương án để bộ phận bệnh. Cần vệ sinh họng, răng, miệng hàng ngày như: đánh răng, súc họng bằng nước muối loãng. Khi mắc bệnh răng, miệng, xoang, mũi... cần được điều trị dứt điểm tránh để mầm bệnh tồn tại và lây lan vào gây viêm họng. Khi viêm họng có chỉ định điều trị, cần thực hiện nghiêm túc, uống thuốc theo toa, đúng phác đồ kháng sinh được kê toa. Cần cho bé uống đúng thuốc, đủ liều, đúng thời gian, không được tự ý mua thuốc kháng sinh để điều trị vì điều trị không đúng sẽ để lại tình trạng kháng thuốc, làm cho điều trị sau này gặp nhiều khó khăn do tình trạng kháng thuốc. Cần đeo khẩu trang cho trẻ lúc ra đường để tránh khói bụi. Tránh cho trẻ uống nước quá lạnh hoặc quá nóng hay có thói quen ngậm kẹo hay ăn kem. Với bộ phận ngủ, cần thoáng mát, nếu có điều hòa nhiệt độ cần giữ ở mức nhiệt độ mát mẻ dễ chịu, nhiệt độ lý tưởng cho trẻ là khoảng 24 – 26oC. Nếu dùng quạt, nên cho trẻ nằm quạt tốc độ lớn trong thời gian ngắn giúp trẻ dễ ngủ, sau đó giảm dần cường độ, quạt phải luôn được quay thay đổi hướng gió. Tập cho trẻ thói quen uống nhiều nước, rất tốt đặc biệt nước đun sôi để nguội, đánh răng sau mỗi bữa ăn, tập thể dục. Tập thói quen rửa tay trước khi ãn và rửa tay sau lúc đi vệ sinh. Với trẻ nhỏ, nhất là trẻ nhỏ còn bú mẹ, cần thực hiện rất tốt chính sách nuôi dưỡng tốt, dinh dưỡng cân bằng đủ dưỡng chất, uống vitamin A đầy đủ theo hướng dẫn, tắm nắng chống còi xương, suy dinh dưỡng. Luôn giữ cho trẻ ấm áp, tránh gió lùa, tránh tập trung nơi đông người, tránh nơi môi trường bị ô nhiễm, khói bụi.

Đối với bộ phận bệnh thấp tim, cần phải dự bộ phận bằng kháng sinh penicillin. Theo ước tính, có khoảng 5% trẻ em bị nhiễm khuẩn hô hấp do liên cầu. Dự phòng bằng cách tiêm bắp, với liều chỉ có penicillin benzathin, với trẻ dưới 10 tuổi dùng 600.000 UI, trên 10 tuổi 900.000 UI. Hoặc có thể sử dụng penicillin V bằng đường uống với liều 200.000 - 250.000 UI, uống 3 hay 4 lần trong ngày, uống 10 ngày liền. Nếu bệnh nhi có phản ứng với penicillin thì cho uống erythromycin với liều 45mg/kg thể trọng trong một ngày, uống liền trong 10 ngày. Hiện nay vắc-xin chủng ngừa liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A đã thực hiện thành công, nhưng giá tiền còn cao.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Phòng ngừa bệnh quai bị

Con tôi 9 tuổi, mấy ngày nay cháu bị sốt, không muốn ăn uống, bên mang tai sưng to, đau. Có phải cháu bị quai bị, bệnh này có bị lây không, bộ phận tránh như thế nào, thưa bác sĩ?

Hoàng Thị Dinh(Thanh Hóa)

Quai bị là 1 bệnh nhiễm cấp tính do Paramyxovirus gây nên, làm viêm các tuyến nước bọt mang tai. Ai cũng dễ mắc quai bị nhưng hay gặp nhất là lứa tuổi từ 10  -19 tuổi và nam dễ gặp hơn nữ. Bệnh quai bị lây theo đường hô hấp qua những giọt nước bọt bắn về khi bệnh nhân nói, hắt hơi, ho. Biểu hiện của bệnh là người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng một tuần. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh quai bị có thể để lại những biến chứng nguy hiểm như viêm tinh hoàn và mào tinh, viêm buồng trứng, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến mang tai... Phụ nữ có thai mà mắc quai bị trong 3 tháng đầu, con rất dễ bị dị dạng. Phòng bệnh quai bị tốt đặc biệt chủ động tiêm bộ phận vaccin và nên tư vấn bác sĩ trước khi tiêm phòng. Khi người nhà đã mắc quai bị nên cách ly đến khi khỏi hẳn để tránh lây lan.         

ThS. Hà Hùng

Chăm sóc trẻ bị ho cảm tại nhà

Trẻ em rất dễ bị viêm dường hô hấp, nhất là lúc thời tiết thay đổi. Trong đó, gần như trường hợp là bệnh nhẹ với các triệu chứng ho, hắt hơi, sổ mũi, nghẹt mũi. Thông thường, bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 7 ngày nếu như được chăm sóc đúng cách.

 
Nhận biết trẻ ho cảm thông thường

Để biết chắc con mình chỉ bị ho cảm thông thường, phụ huynh cần thực hiện các bước sau:

Kiểm tra 4 dấu hiệu nguy hiểm:

- Không uống được hoặc bỏ bú: nghĩa là khi đút từng thìa (muỗng cà phê) nước hay sữa cho trẻ uống nhưng trẻ không nuốt được, hoặc trẻ không thể tự mút lúc đưa vú mẹ vào miệng trẻ.

- Nôn tất cả mọi thứ: lúc đút từng thìa nước hoặc sữa, trẻ uống được nhưng ngay tức khắc trẻ nôn ra ngay. Cho trẻ ngưng vài phút, lặp lại như trên nếu như trẻ vẫn ói ngay nghĩa là trẻ có dấu hiệu “nôn tất cả mọi thứ”.

- Co giật: trong cơn co giật, mắt trẻ thường “đứng tròng” hoặc “giật giật”, các cơ vùng mặt cũng co giật theo, 2 tay, 2 chân co quắp lại. Lưu ý, trẻ có thể sốt cao hoặc không sốt.

- Li bì: trẻ ngủ nhiều hơn thông thường và khó lay gọi, hoặc khi lay gọi trẻ mở mắt nhưng sau đó lại thiếp đi.

Kiểm tra các dấu hiệu nặng:

- Thở nhanh: đếm nhịp thở lúc trẻ nằm yên trong 1 phút. Nếu nhịp thở từ 60 lần trở lên (đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi), 50 lần (đối với trẻ từ 2 – 12 tháng tuổi) và 40 lần (đối với trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi) thì trẻ đó thở nhanh.

- Thở co lõm ngực: quan sát lồng ngực khi trẻ nằm yên. Bình thường khi hít vào, lồng ngực hai bên nở ra. Nếu khi hít vào, 2 bên lồng ngực lõm vào, trẻ bị thở co lõm ngực.

- Thở rít: phụ huynh để tai tại vùng mũi miệng trẻ, mắt quan sát vùng ngực - bụng. Bình thường khi trẻ hít vào, tai ta nghe được tiếng thở của bé có âm sắc nhẹ nhàng. Nếu tai ta nghe 1 âm sắc thô ráp lúc trẻ hít vào, trẻ có dấu hiệu thở rít.

Trẻ bị ho cảm bình thường là trẻ chỉ ho, sổ mũi và không có bất kỳ dấu hiệu hiểm nguy và dấu hiệu nặng nào tại trên.

Hướng dẫn cách chăm sóc

Nếu trẻ bị ho cảm thông thường nên được chăm sóc đúng cách như sau:

- Tiếp tục cho trẻ ăn, bú: khi bị bệnh trẻ thường biếng ăn, biếng bú. Phụ huynh nên khuyến khích và cho trẻ ăn, bú nhiều lần trong ngày. Nếu trẻ bị nghẹt mũi, cần làm thông thoáng mũi trước khi cho bú.

- Cho trẻ uống đủ nước. Nếu trẻ ho nhiều, có thể cho trẻ uống thuốc ho an toàn như: tắc chưng đường, mật ong, tần dày lá hoặc các loại thuốc ho có Xuất xứ thảo dược. Nếu trẻ bị nghẹt mũi, làm thông thoáng mũi:

- Trẻ lớn: hướng dẫn trẻ hỉ mũi đúng cách. Hỉ mũi từng bên. Dùng ngón tay đè một bên mũi, hỉ mạnh bên kia và làm ngược lại. Lưu ý: không được bịt hai mũi cùng 1 lúc.

- Trẻ nhỏ: phụ huynh sử dụng giấy mềm xếp góc nhọn (bấc sâu kèn), đưa vừa đủ vào mũi trẻ. Làm vài lần đến khi sạch nước mũi. Trong trường hợp nước mũi đặc gây nghẹt mũi nhiều, phụ huynh nên dùng dung dịch natriclorua 0,9% nhỏ 2 - 3 giọt mỗi bên mũi, sau đó dùng giấy mềm làm sạch mũi như trên.

Theo dõi để phát hiện các dấu hiệu cần đưa trẻ đến bệnh viện khám ngay như: không uống được hoặc bỏ bú, thở mệt, sốt cao.

Những điều không nên làm

- Tự ý dùng các loại thuốc nhỏ mũi có chất co mạch vì có thể gây ngộ độc cho trẻ - rất nguy hiểm.

- Dùng miệng để hút mũi trẻ vì có thể lây bệnh truyền nhiễm.

- Dùng tăm bông để ngoáy mũi vì có thể làm tổn thương mũi trẻ.

BS. NGỌC LAN

Những bất thường ở tử cung

Tử cung là một trong những cơ quan sinh dục của phụ nữ có hình như quả lê, với 7,5cm chiều dài; 5cm chiều rộng và 2,5cm chiều sâu. Theo thống kê có khoảng 0,1 - 3,2% phụ nữ có bất thường ở tử cung. Nó có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản cũng như quá trình chuyển dạ. Do đó nếu được phát hiện thấy các dấu hiệu bất thường tại tử cung, người phụ nữ nên khám để theo dõi và tuân theo chỉ định của bác sĩ nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu tới sức khỏe sinh sản.

Các trường hợp bất thường ở tử cung:

Không có tử cung: Trường hợp này người phụ nữ sẽ không có kinh nguyệt và không thể mang thai được.

Tử cung đôi: Có thể có hai tử cung trong tiểu khung. Chúng có thể chung nhau một âm đạo hoặc mỗi tử cung có 1 âm đạo riêng biệt. Nếu chức năng của 1 trong 2 tử cung vẫn hoàn toàn thông thường thì người phụ nữ vẫn có thể mang thai. Tuy nhiên, hai tử cung này hiếm lúc cùng phát triển hoàn thiện, bởi vậy cần khám và đánh mức giá chức năng của mỗi tử cung. Đa phần các trường hợp này được cắt bỏ 1 tử cung bị thoái hoá, chỉ giữ lại tử cung hoàn thiện.

Tử cung có vách ngăn: Là loại dị dạng tử cung thường gặp nhất (chiếm khoảng 40%). Những trường hợp này có thể phát hiện nhờ siêu âm, chụp X-quang, soi ổ bụng. Hai tử cung có thể dính với nhau bằng 1 vách ngăn không hoàn toàn, hoặc vách ngăn hoàn toàn. Nếu tử cung có vách ngăn, có thể người phụ nữ sẽ gặp khó khăn hơn trong quy trình thụ thai.  Những trường hợp khác, tuy vẫn có thể thụ thai nhưng lại có ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi trong tử cung người mẹ. Do đó, khi phát hiện thấy tử cung có vách ngăn, người bệnh thường cần phẫu thuật để tạo hình dáng bình thường cho tử cung.

Tử cung 1 sừng:

Trường hợp này tử cung chỉ có một buồng trứng và một vòi trứng nên người phụ nữ có thể gặp khó khăn hơn lúc mang thai.

Tử cung nhi tính: Đây là trường hợp tử cung kém phát triển, kích thước chỉ bằng tử cung của các bé gái. Có nhiều nguyên do có thể gây ra tình trạng này như: cơ thể phát triển không hài hoà, thiếu sự trưởng thành của nhiều chức năng, bất thường vào gene, do rối loạn nội tiết (như suy tuyến giáp, suy thùy trước tuyến yên)... Những phụ nữ có tử cung nhi tính thường kèm theo không có buồng trứng hay không có âm đạo, do đó không mang thai được. Còn những người có buồng trứng hoạt động bình thường thì vẫn có thể có con nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

Đối với các trường hợp bị sảy thai, tới nay chưa có kết luận chuẩn xác về nguy cơ sảy thai khi tử cung mẹ không bình thường. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy người mẹ có bất thường ở tử cung thì tỷ lệ sảy thai sẽ cao hơn, trong đó, tử cung có vách ngăn chiếm tỷ lệ sảy thai cao nhất.

Trong suốt thai kỳ, tử cung bất thường khiến người mẹ phải đối mặt với nhiều rắc rối sức khỏe hơn, đặc biệt trong quá trình chuyển dạ. Nếu tử cung co lại, người mẹ cũng dễ bị chuyển dạ sớm vì thai nhi không có đủ diện tích để phát triển, trọng lượng thai nhi sẽ kéo căng tử cung mẹ, kích thích cơn chuyển dạ sớm.  Với tử cung bất thường, ngôi thai dễ bị ngược hơn. Vì thế, khả năng sinh mổ của người mẹ cũng cao hơn.

Tóm lại, nếu được phát hiện những bất thường tại tử cung, người phụ nữ nên được các bác sĩ sản phụ khoa khám theo dõi, hỗ trợ tư vấn và có chỉ định điều trị thích hợp để tránh những ảnh hưởng xấu tới khả năng sinh sản cũng như quá trình mang thai và chuyển da, bảo vệ sức khỏe của mẹ và thai nhi.            

Bác sĩ  Thu Lan