Monday, January 1, 2001

Bệnh ngứa vùng kín

Tôi năm nay 26 tuổi, lặp gia đình hơn một tháng, tôi bị bệnh viêm nơi vùng kín, ngứa và thỉnh thoảng rát âm ỉ. Hiện tôi đang trong quá trình đặt thuốc, chữa trị. Tôi đang rất lo lắng, vì chưa biết sau lúc chữa trị dứt bệnh thì thời gian bao lâu chúng tôi mới có thể chăn gối trở lại?

(B. T. - Tp.HCM)

Qua thư em hỏi, với triệu chứng ngứa và thỉnh thoảng rát âm ỉ tại vùng kín là triệu chứng của nhiều bệnh như trùng roi có tên y khoa là trichomonas, nấm candida âm đạo, chàm âm hộ…

Ngày nay, nhờ những tiến bộ vượt bực của y học nên việc điều trị 1 số bệnh kể trên phát triển thành đơn giản hơn nhiều, như bệnh trùng roi chỉ cần uống 1 liều tinidazole tên biệt dược là fasigyn hay secnidazol (flagentyl) toàn bộ 2 loại trên đều dùng 2g uống 1 lần duy nhất; ví dụ do nấm candida âm đạo thì dùng fluconazole với tên biệt dược là funcan, flucomedil, fluconazol stada, diflucan…uống với 1 liều chỉ có 150mg…

Với tính chất như vậy, nên việc quan hệ vợ chồng cũng không phải lo lắng nhiều, sau điều trị một tuần là có thể quan hệ bình thường, nhưng tốt nhất là có hướng giải quyết phòng bệnh như sử dụng bao cao su đúng cách. Tuy nhiên, để phân biệt và điều trị đúng chỉ định, bạn cần được bác sĩ sản khoa hay da liễu khám và có chỉ định để sử dụng thuốc hợp lý. Chúc em thành công và luôn tự tin trong cuộc sống.

BS.CKI.TRẦN QUỐC LONG

Nhiễm độc thai nghén

Cháu mang thai được 5 tháng, sắp đây cháu thấy chân cháu bị phù, người mệt mỏi. Cháu được biết nếu như bị nhiễm độc thai nghén thì rất nguy hiểm đến tính mạng cả hai mẹ con. Rất mong bác sĩ giải đáp giúp cháu bệnh này.

Bùi Thị Nghĩa(Hòa Bình)

Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý xảy ra trong thời kỳ mang thai, nhất là khi thai phụ ở tháng thứ 5, những người mang thai con so, đa thai, đa ối. Nhiễm độc thai nghén từ nhẹ tới nặng. Dấu hiệu trước hết là chân bị phù nề, tăng cân nhanh và nhiều (0,5 - 1kg/tuần); huyết áp tăng; xét nghiệm nước tiểu thấy có albumin niệu. Nếu bạn bị nhiễm độc nhẹ thì không ảnh hưởng tới mẹ và thai nhi. Nhưng nếu như bị nhiễm độc nặng mà không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến co thắt mạch toàn thân, bị sản giật, thai nhi sẽ bị thiếu ôxy và dinh dưỡng... Để không bị nhiễm độc thai nghén, các bà mẹ khi mang thai phải kiểm tra và khám thai định kỳ, không làm việc quá sức khi mang thai; cần phải có chế độ dinh dưỡng hợp lý (bổ sung đường, đạm, vitamin, các chất vi lượng, uống bổ sung viên sắt, axid folic...) và chính sách nghỉ ngơi đúng mức.  Nếu thấy có dấu hiệu phù, lên cân quá nhanh hay các dấu hiệu bất thông thường phải đến ngay cửa hàng y tế để khám và điều trị kịp thời.

BS. Trần Phương Thu

Sinh mổ

Hiện nay, nhiều sản phụ chọn cách sinh mổ vì sợ đau đẻ, song song chủ động được thời gian, tránh cho người nhà và sản phụ những căng thẳng, mệt mỏi của quá trình chờ sinh. Tuy nhiên, theo các bác sĩ, sinh thường mới là “giải pháp tối ưu” cho cả mẹ và bé.

Sinh mổ lúc nào?

Các bác sĩ sẽ chỉ định sinh mổ trong trường hợp sản phụ gặp những vấn đề không thể sinh thường như: khung chậu hẹp, bất tương thích giữa đầu thai với khung chậu vì em bé quá to khoảng trên 4kg (đầu thai lớn hơn khung chậu sản phụ), mẹ mắc bệnh tim mạch, không đủ sức rặn hoặc tử cung không gò được để đẩy thai ra ngoài và biện pháp giục sinh đã thất bại... Ngoài ra, còn có trường hợp sinh khó buộc phải mổ: ngôi thai xoay ở tư thế bất thường ở cuối kì (ngôi mông, ngôi ngang...) nếu như không phẫu thuật sẽ nguy hiểm cho mẹ và bé; hoặc thai suy lúc đang chuyển dạ, nước ối không tốt... bác sĩ cũng sẽ quyết định cho sinh mổ để bảo đảm an toàn cho mẹ và bé.

 Chỉ sinh mổ khi có chỉ định của bác sĩ. Ảnh: Hồng Nga
Những nguy cơ của sinh mổ

Hiện không ít người mẹ quyết định phương pháp sinh mổ để chọn “ngày đẹp, giờ vàng” cho bé ra đời hoặc vì lý do sợ đau, sợ bị giãn âm đạo lúc sinh thường. Tuy nhiên, người mẹ phải hết sức thận trọng vì biện pháp sinh này có thể đưa lại những nguy cơ như:

- Sinh mổ sẽ tránh cho người mẹ những cơn đau lúc chuyển dạ, tuy nhiên, những thủ thuật sau đó lại khiến người mẹ bị đau hơn nhiều.

- Những nguy cơ khi sinh mổ như: tai biến lúc gây tê, vết mổ bị rách, chảy máu, tổn thương đường tiết niệu, nhiễm trùng, băng huyết... đe dọa trực tiếp tới sức khỏe người mẹ. Đặc biệt, nhiễm trùng mổ có khả năng gây hoại tử cổ tử cung. Nguy hiểm hơn, sinh mổ còn khiến người mẹ có thể bị tắc ruột, tắc ống dẫn trứng, gây vô sinh thứ phát.

Ngoài ra, sinh mổ cũng buộc người mẹ phải dùng kháng sinh trong khoảng thời gian cho bé bú sau đó. Điều này sẽ khiến chất lượng sữa của mẹ giảm sút, thậm chí còn ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe bé. Những bé sinh mổ có nguy cơ suy yếu hệ miễn dịch và hô hấp to hơn nhóm bé được sinh thường.

Sau mổ bao lâu có thể mang thai lại?

Những người đã sinh mổ là trường hợp gặp những vấn đề không thể sinh thường nên lần sinh sau thường cũng phải áp dụng biện pháp sinh mổ. Trong lần sinh sau bác sĩ vẫn sẽ thao tác trên vết mổ cũ nên ví dụ khoảng cách giữa 2 lần sinh quá sắp vết khâu sẽ không an toàn (rách, bung đường khâu...) hoặc thai to cũng sẽ làm rách, bục vết khâu của lần sinh trước. Đồng thời, các cơ quan nội tạng sẽ bị tác động tiếp diễn và làm gia nâng cao khả năng dính ruột, rất nguy hiểm. Những sản phụ phải sinh mổ chỉ nên sinh tối đa là hai lần, khoảng cách giữa 2 lần sinh là 5 năm để không ảnh hưởng tới sức khoẻ. Trong khoảng từ hai - 3 năm, nếu bị “nhỡ” thì có thể giữ lại nhưng để bảo đảm an toàn cho cả mẹ và con cần phải các bác sĩ chuyên khoa theo dõi chặt chẽ.

Hiện nay, các bệnh viện cũng đang triển khai thực hiện hướng giải quyết “đẻ không đau”. Thực chất đây chỉ là giảm đau sản khoa bằng cách tiêm thuốc tê về các khe trống giữa các đường dẫn tủy trong cột sống. Lúc này, sản phụ vẫn hoàn toàn tỉnh táo vì thuốc chỉ lan đến các dây thần kinh phía dưới cơ thể nên làm giảm cảm giác đau vùng này. Thai phụ duy nhất cảm giác đau nhẹ đủ để tạo sức rặn giúp tử cung gò đẩy thai ra ngoài. Phương pháp này cũng giúp các thai phụ giảm bớt cảm giác sợ những cơn đau đẻ.

Sinh thường bao giờ cũng rất tốt nhất cho cả mẹ và bé, nên trong những trường hợp không bắt buộc phải can thiệp phẫu thuật, bác sĩ vẫn khuyên các sản phụ nên chọn biện pháp sinh thường.

Bác sĩ  Nguyễn Thanh Thủy

Phòng bệnh viêm họng cấp ở trẻ em

Họng với nhiều chức năng sinh lý không như nhau như: nuốt, thở, phát âm, vị giác… là ngã tư đường ăn và đường thở, là cửa ngõ của không khí, thức ăn và nước uống, do đó là nơi rất thuận tiện cho virus, vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh, nhất là là viêm họng cấp tại trẻ em. Bệnh chiếm tỷ lệ bậc nhất trong số lần khám ở các phòng khám nhi khoa.

Viêm họng cấp tính là loại bệnh khá phổ biến

Nguyên nhân gây bệnh thường

xuất hiện do vi khuẩn như: phế cầu, liên cầu hoặc các vi khuẩn khác sẵn có ở họng hay virus gây nên như: virus cúm, sởi… Nguy hiểm hơn cả là do liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A gây nên, từ viêm họng dẫn đến biến chứng thấp tim, thấp khớp, viêm thận. Một số nguyên nhân khác cũng có thể làm cho trẻ em viêm họng như: do khói thuốc lá, do bụi bẩn, do không gian sống của bé không trong sạch, do bị dị ứng mãn tính, hay do nhiệt độ phòng ngủ của bé không thích hợp…

Về triệu chứng, viêm họng cấp thường khởi phát đột ngột, sốt cao 39 - 40oC, kèm theo đó là nuốt đau, rát họng, khàn tiếng có thể kèm theo các triệu chứng khác như: chảy nước mũi nhầy, tiếng nói khàn nhẹ và ho khan, trẻ mệt mỏi, môi khô, lưỡi bẩn, đặc biệt hay có viêm tấy hạch vùng cổ, hạch góc hàm sưng, đau… Với bé còn bú mẹ, viêm họng thường kèm theo bú ít hoặc bỏ bú, há miệng khi ngủ, bức rức khó chịu và quấy khóc. Với trẻ lớn hơn thường kêu đau vùng họng, chán ăn nên dễ làm cho cha mẹ nhầm tưởng rằng đó là những dấu hiệu khó chịu khi bé mọc răng…

Bệnh thường kéo dài từ 7 - 10 ngày là khỏi hẳn, nếu kéo dài hơn dễ gây nên các biến chứng, nhất là vào tuần thứ hai, thứ ba như: thấp khớp, thấp tim, viêm cầu thận cấp, bệnh viêm tấy quanh amiđan, viêm tai, viêm xoang, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm hạch mủ, nhiễm trùng huyết. Ở trẻ em, khi bị viêm họng cấp, ngoài những biến chứng kể trên, hiểm nguy đặc biệt có thể gây bệnh thấp tim, thấp khớp và viêm cầu thận ở trẻ em, do liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A, từ viêm họng kích thích cơ thể sản xuất ra các kháng thể gây ảnh hưởng tới tim, khớp và cầu thận. Khi bị biến chứng viêm họng do liên cầu khuẩn, trẻ có các dấu hiệu sốt, đau họng, ho, tiếp đến là sưng, nóng các khớp, nhất là là sưng khớp gối, khớp khuỷu và chạy từ khớp này sang khớp khác. Sưng khớp và khớp di chuyển là 1 nhân tố cần thiết để nhận ra nguy cơ bị thấp tim tại bệnh nhân. Và một biến chứng phổ biến nhất là chuyển từ viêm họng cấp tính phát triển thành viêm họng mãn tính, đây là cơ hội để bệnh tái đi tái lại nhiều lần.

Về điều trị, với em bé dưới một tuổi lúc bị sốt, có thân nhiệt trên 38oC thì nên cần nhanh chóng được thăm khám, rất tốt nhất là bác sĩ chuyên khoa nhi, tránh tự ý điều trị, vì trẻ em sốt cao rất dễ đưa tới co giật, lau mát cho trẻ bằng nước ấm, tránh ủ nhiều quần áo, thực hiện đúng theo toa thuốc của bác sĩ, sau lúc uống thuốc theo toa vẫn chưa đỡ, sau 24 - 48 giờ, bệnh không thuyên giảm thì cần nhập viện để theo dõi và điều trị.

Phòng bệnh được không?

Ông cha ta có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” vì vậy, cần có phương án để bộ phận bệnh. Cần vệ sinh họng, răng, miệng hàng ngày như: đánh răng, súc họng bằng nước muối loãng. Khi mắc bệnh răng, miệng, xoang, mũi... cần được điều trị dứt điểm tránh để mầm bệnh tồn tại và lây lan vào gây viêm họng. Khi viêm họng có chỉ định điều trị, cần thực hiện nghiêm túc, uống thuốc theo toa, đúng phác đồ kháng sinh được kê toa. Cần cho bé uống đúng thuốc, đủ liều, đúng thời gian, không được tự ý mua thuốc kháng sinh để điều trị vì điều trị không đúng sẽ để lại tình trạng kháng thuốc, làm cho điều trị sau này gặp nhiều khó khăn do tình trạng kháng thuốc. Cần đeo khẩu trang cho trẻ lúc ra đường để tránh khói bụi. Tránh cho trẻ uống nước quá lạnh hoặc quá nóng hay có thói quen ngậm kẹo hay ăn kem. Với bộ phận ngủ, cần thoáng mát, nếu có điều hòa nhiệt độ cần giữ ở mức nhiệt độ mát mẻ dễ chịu, nhiệt độ lý tưởng cho trẻ là khoảng 24 – 26oC. Nếu dùng quạt, nên cho trẻ nằm quạt tốc độ lớn trong thời gian ngắn giúp trẻ dễ ngủ, sau đó giảm dần cường độ, quạt phải luôn được quay thay đổi hướng gió. Tập cho trẻ thói quen uống nhiều nước, rất tốt đặc biệt nước đun sôi để nguội, đánh răng sau mỗi bữa ăn, tập thể dục. Tập thói quen rửa tay trước khi ãn và rửa tay sau lúc đi vệ sinh. Với trẻ nhỏ, nhất là trẻ nhỏ còn bú mẹ, cần thực hiện rất tốt chính sách nuôi dưỡng tốt, dinh dưỡng cân bằng đủ dưỡng chất, uống vitamin A đầy đủ theo hướng dẫn, tắm nắng chống còi xương, suy dinh dưỡng. Luôn giữ cho trẻ ấm áp, tránh gió lùa, tránh tập trung nơi đông người, tránh nơi môi trường bị ô nhiễm, khói bụi.

Đối với bộ phận bệnh thấp tim, cần phải dự bộ phận bằng kháng sinh penicillin. Theo ước tính, có khoảng 5% trẻ em bị nhiễm khuẩn hô hấp do liên cầu. Dự phòng bằng cách tiêm bắp, với liều chỉ có penicillin benzathin, với trẻ dưới 10 tuổi dùng 600.000 UI, trên 10 tuổi 900.000 UI. Hoặc có thể sử dụng penicillin V bằng đường uống với liều 200.000 - 250.000 UI, uống 3 hay 4 lần trong ngày, uống 10 ngày liền. Nếu bệnh nhi có phản ứng với penicillin thì cho uống erythromycin với liều 45mg/kg thể trọng trong một ngày, uống liền trong 10 ngày. Hiện nay vắc-xin chủng ngừa liên cầu trùng bê-ta tan máu nhóm A đã thực hiện thành công, nhưng giá tiền còn cao.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Phòng ngừa bệnh quai bị

Con tôi 9 tuổi, mấy ngày nay cháu bị sốt, không muốn ăn uống, bên mang tai sưng to, đau. Có phải cháu bị quai bị, bệnh này có bị lây không, bộ phận tránh như thế nào, thưa bác sĩ?

Hoàng Thị Dinh(Thanh Hóa)

Quai bị là 1 bệnh nhiễm cấp tính do Paramyxovirus gây nên, làm viêm các tuyến nước bọt mang tai. Ai cũng dễ mắc quai bị nhưng hay gặp nhất là lứa tuổi từ 10  -19 tuổi và nam dễ gặp hơn nữ. Bệnh quai bị lây theo đường hô hấp qua những giọt nước bọt bắn về khi bệnh nhân nói, hắt hơi, ho. Biểu hiện của bệnh là người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng một tuần. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh quai bị có thể để lại những biến chứng nguy hiểm như viêm tinh hoàn và mào tinh, viêm buồng trứng, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến mang tai... Phụ nữ có thai mà mắc quai bị trong 3 tháng đầu, con rất dễ bị dị dạng. Phòng bệnh quai bị tốt đặc biệt chủ động tiêm bộ phận vaccin và nên tư vấn bác sĩ trước khi tiêm phòng. Khi người nhà đã mắc quai bị nên cách ly đến khi khỏi hẳn để tránh lây lan.         

ThS. Hà Hùng

Chăm sóc trẻ bị ho cảm tại nhà

Trẻ em rất dễ bị viêm dường hô hấp, nhất là lúc thời tiết thay đổi. Trong đó, gần như trường hợp là bệnh nhẹ với các triệu chứng ho, hắt hơi, sổ mũi, nghẹt mũi. Thông thường, bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 7 ngày nếu như được chăm sóc đúng cách.

 
Nhận biết trẻ ho cảm thông thường

Để biết chắc con mình chỉ bị ho cảm thông thường, phụ huynh cần thực hiện các bước sau:

Kiểm tra 4 dấu hiệu nguy hiểm:

- Không uống được hoặc bỏ bú: nghĩa là khi đút từng thìa (muỗng cà phê) nước hay sữa cho trẻ uống nhưng trẻ không nuốt được, hoặc trẻ không thể tự mút lúc đưa vú mẹ vào miệng trẻ.

- Nôn tất cả mọi thứ: lúc đút từng thìa nước hoặc sữa, trẻ uống được nhưng ngay tức khắc trẻ nôn ra ngay. Cho trẻ ngưng vài phút, lặp lại như trên nếu như trẻ vẫn ói ngay nghĩa là trẻ có dấu hiệu “nôn tất cả mọi thứ”.

- Co giật: trong cơn co giật, mắt trẻ thường “đứng tròng” hoặc “giật giật”, các cơ vùng mặt cũng co giật theo, 2 tay, 2 chân co quắp lại. Lưu ý, trẻ có thể sốt cao hoặc không sốt.

- Li bì: trẻ ngủ nhiều hơn thông thường và khó lay gọi, hoặc khi lay gọi trẻ mở mắt nhưng sau đó lại thiếp đi.

Kiểm tra các dấu hiệu nặng:

- Thở nhanh: đếm nhịp thở lúc trẻ nằm yên trong 1 phút. Nếu nhịp thở từ 60 lần trở lên (đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi), 50 lần (đối với trẻ từ 2 – 12 tháng tuổi) và 40 lần (đối với trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi) thì trẻ đó thở nhanh.

- Thở co lõm ngực: quan sát lồng ngực khi trẻ nằm yên. Bình thường khi hít vào, lồng ngực hai bên nở ra. Nếu khi hít vào, 2 bên lồng ngực lõm vào, trẻ bị thở co lõm ngực.

- Thở rít: phụ huynh để tai tại vùng mũi miệng trẻ, mắt quan sát vùng ngực - bụng. Bình thường khi trẻ hít vào, tai ta nghe được tiếng thở của bé có âm sắc nhẹ nhàng. Nếu tai ta nghe 1 âm sắc thô ráp lúc trẻ hít vào, trẻ có dấu hiệu thở rít.

Trẻ bị ho cảm bình thường là trẻ chỉ ho, sổ mũi và không có bất kỳ dấu hiệu hiểm nguy và dấu hiệu nặng nào tại trên.

Hướng dẫn cách chăm sóc

Nếu trẻ bị ho cảm thông thường nên được chăm sóc đúng cách như sau:

- Tiếp tục cho trẻ ăn, bú: khi bị bệnh trẻ thường biếng ăn, biếng bú. Phụ huynh nên khuyến khích và cho trẻ ăn, bú nhiều lần trong ngày. Nếu trẻ bị nghẹt mũi, cần làm thông thoáng mũi trước khi cho bú.

- Cho trẻ uống đủ nước. Nếu trẻ ho nhiều, có thể cho trẻ uống thuốc ho an toàn như: tắc chưng đường, mật ong, tần dày lá hoặc các loại thuốc ho có Xuất xứ thảo dược. Nếu trẻ bị nghẹt mũi, làm thông thoáng mũi:

- Trẻ lớn: hướng dẫn trẻ hỉ mũi đúng cách. Hỉ mũi từng bên. Dùng ngón tay đè một bên mũi, hỉ mạnh bên kia và làm ngược lại. Lưu ý: không được bịt hai mũi cùng 1 lúc.

- Trẻ nhỏ: phụ huynh sử dụng giấy mềm xếp góc nhọn (bấc sâu kèn), đưa vừa đủ vào mũi trẻ. Làm vài lần đến khi sạch nước mũi. Trong trường hợp nước mũi đặc gây nghẹt mũi nhiều, phụ huynh nên dùng dung dịch natriclorua 0,9% nhỏ 2 - 3 giọt mỗi bên mũi, sau đó dùng giấy mềm làm sạch mũi như trên.

Theo dõi để phát hiện các dấu hiệu cần đưa trẻ đến bệnh viện khám ngay như: không uống được hoặc bỏ bú, thở mệt, sốt cao.

Những điều không nên làm

- Tự ý dùng các loại thuốc nhỏ mũi có chất co mạch vì có thể gây ngộ độc cho trẻ - rất nguy hiểm.

- Dùng miệng để hút mũi trẻ vì có thể lây bệnh truyền nhiễm.

- Dùng tăm bông để ngoáy mũi vì có thể làm tổn thương mũi trẻ.

BS. NGỌC LAN

Những bất thường ở tử cung

Tử cung là một trong những cơ quan sinh dục của phụ nữ có hình như quả lê, với 7,5cm chiều dài; 5cm chiều rộng và 2,5cm chiều sâu. Theo thống kê có khoảng 0,1 - 3,2% phụ nữ có bất thường ở tử cung. Nó có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản cũng như quá trình chuyển dạ. Do đó nếu được phát hiện thấy các dấu hiệu bất thường tại tử cung, người phụ nữ nên khám để theo dõi và tuân theo chỉ định của bác sĩ nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu tới sức khỏe sinh sản.

Các trường hợp bất thường ở tử cung:

Không có tử cung: Trường hợp này người phụ nữ sẽ không có kinh nguyệt và không thể mang thai được.

Tử cung đôi: Có thể có hai tử cung trong tiểu khung. Chúng có thể chung nhau một âm đạo hoặc mỗi tử cung có 1 âm đạo riêng biệt. Nếu chức năng của 1 trong 2 tử cung vẫn hoàn toàn thông thường thì người phụ nữ vẫn có thể mang thai. Tuy nhiên, hai tử cung này hiếm lúc cùng phát triển hoàn thiện, bởi vậy cần khám và đánh mức giá chức năng của mỗi tử cung. Đa phần các trường hợp này được cắt bỏ 1 tử cung bị thoái hoá, chỉ giữ lại tử cung hoàn thiện.

Tử cung có vách ngăn: Là loại dị dạng tử cung thường gặp nhất (chiếm khoảng 40%). Những trường hợp này có thể phát hiện nhờ siêu âm, chụp X-quang, soi ổ bụng. Hai tử cung có thể dính với nhau bằng 1 vách ngăn không hoàn toàn, hoặc vách ngăn hoàn toàn. Nếu tử cung có vách ngăn, có thể người phụ nữ sẽ gặp khó khăn hơn trong quy trình thụ thai.  Những trường hợp khác, tuy vẫn có thể thụ thai nhưng lại có ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi trong tử cung người mẹ. Do đó, khi phát hiện thấy tử cung có vách ngăn, người bệnh thường cần phẫu thuật để tạo hình dáng bình thường cho tử cung.

Tử cung 1 sừng:

Trường hợp này tử cung chỉ có một buồng trứng và một vòi trứng nên người phụ nữ có thể gặp khó khăn hơn lúc mang thai.

Tử cung nhi tính: Đây là trường hợp tử cung kém phát triển, kích thước chỉ bằng tử cung của các bé gái. Có nhiều nguyên do có thể gây ra tình trạng này như: cơ thể phát triển không hài hoà, thiếu sự trưởng thành của nhiều chức năng, bất thường vào gene, do rối loạn nội tiết (như suy tuyến giáp, suy thùy trước tuyến yên)... Những phụ nữ có tử cung nhi tính thường kèm theo không có buồng trứng hay không có âm đạo, do đó không mang thai được. Còn những người có buồng trứng hoạt động bình thường thì vẫn có thể có con nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

Đối với các trường hợp bị sảy thai, tới nay chưa có kết luận chuẩn xác về nguy cơ sảy thai khi tử cung mẹ không bình thường. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy người mẹ có bất thường ở tử cung thì tỷ lệ sảy thai sẽ cao hơn, trong đó, tử cung có vách ngăn chiếm tỷ lệ sảy thai cao nhất.

Trong suốt thai kỳ, tử cung bất thường khiến người mẹ phải đối mặt với nhiều rắc rối sức khỏe hơn, đặc biệt trong quá trình chuyển dạ. Nếu tử cung co lại, người mẹ cũng dễ bị chuyển dạ sớm vì thai nhi không có đủ diện tích để phát triển, trọng lượng thai nhi sẽ kéo căng tử cung mẹ, kích thích cơn chuyển dạ sớm.  Với tử cung bất thường, ngôi thai dễ bị ngược hơn. Vì thế, khả năng sinh mổ của người mẹ cũng cao hơn.

Tóm lại, nếu được phát hiện những bất thường tại tử cung, người phụ nữ nên được các bác sĩ sản phụ khoa khám theo dõi, hỗ trợ tư vấn và có chỉ định điều trị thích hợp để tránh những ảnh hưởng xấu tới khả năng sinh sản cũng như quá trình mang thai và chuyển da, bảo vệ sức khỏe của mẹ và thai nhi.            

Bác sĩ  Thu Lan

Xuất huyết khi mang thai có nguy hiểm?

Có khoảng 25% phụ nữ mang thai gặp phải tình trạng xuất huyết trong thai kỳ. Tình trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân không giống tùy vào thời điểm diễn ra. Nếu chẳng may gặp phải tình trạng này, các thai phụ cần có sự giải đáp của nhân viên y tế vì có thể nguy hại đến sức khỏe.

Xuất huyết về đầu thai kỳ có thể là dấu hiệu của sự sảy thai

Vào đầu thai kỳ, việc xuất huyết có thể không nghiêm trọng, thông thường là do có những tổn thương nho nhỏ ở cổ tử cung. Thế nhưng, trong sắp 1/2 các trường hợp, đó có thể là dấu hiệu sảy thai, thường do có liên quan đến sự bất thường của nhiễm sắc thể. Như vậy, việc xuất huyết là một điều khiến thai phụ nên chú ý.

Những nguyên nhân nào khác có thể gây xuất huyết?

Phần to các trường hợp bị xuất huyết là dấu hiệu của việc thai phụ có thai ngoài tử cung. Nguyên nhân là do phôi thai làm tổ trước khi di chuyển đến được tử cung, bình thường nhất là làm tổ tại 1 trong 2 bên vòi trứng. Siêu âm thai có thể giúp phát hiện được tình trạng này.

Các nguyên do khác, thường hiếm gặp hơn, đó là sự nhiễm trùng, có hư tổn ở cổ tử cung mà không biết trước khi mang thai, hoặc mang thai trứng.

Hình ảnh thai thông thường (trên) và thai ngoài tử cung (dưới).

Trường hợp xuất huyết diễn ra trong thai kỳ

Trong thai kỳ việc xuất huyết thường ít lúc xảy ra. Nhưng nếu diễn ra xuất huyết về thời điểm giữa thai kỳ, đây có thể là dấu hiệu của nguy cơ sinh non.

Nếu xuất huyết diễn ra về cuối thai kỳ, đó có thể là dấu hiệu của việc chuyển dạ, hoặc còn là trường hợp bánh rau đặt sai vị trí (rau tiền đạo), sẽ khiến cho việc sinh nở bằng đường tự nhiên gặp khó khăn

Nguyên nhân sau cùng, rất hiếm lúc gặp: đó là tình trạng bong rau đột ngột - bánh rau bong tróc ra khỏi thành tử cung đột ngột lúc chưa đến khi chuyển dạ. Khi có những dấu hiệu của tình trạng rau bong đột ngột, nhân viên y tế thôn bản cần tư vấn, hướng dẫn thai phụ đến khám ngay ở các địa chỉ y tế chuyên khoa để được điều trị thích hợp, kịp thời.

Nên làm gì khi bị xuất huyết lúc mang thai?

Nếu bị xuất huyết lúc mang thai, thai phụ cần có sự hỗ trợ tư vấn của bác sĩ ngay lập tức, nhất là là vào giai đoạn đầu của thai kỳ. Điều này rất thiết yếu để xác định xem việc xuất huyết tương tự có gây nguy hiểm cho bạn không. Nhân viên y tế thôn bản cần tư vấn thai phụ nhanh nhất tới khám tại đúng bác sĩ chuyên vào sản phụ khoa. Trong những trường hợp quá khẩn cấp, bạn có thể đến gặp bác sĩ chuyên khoa tổng quát, hoặc nên gọi cấp cứu để được xử trí kịp thời.

Nên theo dõi liên tục trong quá trình mang thai.

Những trường hợp nào cần được điều trị?

Thai ngoài tử cung: Trường hợp này thường sẽ được phẫu thuật khẩn cấp để bảo vệ vòi trứng. Tuy nhiên, ví dụ thai phát triển chưa lớn, việc điều trị có thể bằng thuốc

Nhiễm trùng: Các bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân dùng kháng sinh

Dọa sinh non: Thai phụ sẽ được chỉ định nghỉ ngơi kèm theo điều trị bằng thuốc chống các cơn co thắt tử cung

Các trường hợp khác: Các thai phụ cần được được theo dõi việc mang thai một cách chặt chẽ, đúng theo quy định để biết những dấu hiệu nguy hiểm có thể diễn ra lúc mang thai, từ đó, các bác sĩ sẽ giải đáp và có hướng điều trị thích hợp, kịp thời, tránh những nguy cơ diễn ra đối với mẹ và thai nhi.   

 

BS. Bùi Thị Phương

Đục nhân mắt trẻ nhỏ

Nhân mắt hay còn gọi là thể thủy tinh, nó là 1 thấu kính trong suốt, nằm ở ngay sau đồng tử. Nhân mắt thông thường trong suốt và có khả năng điều tiết và hội tụ các tia sáng lên võng mạc nơi điểm vàng, giúp chúng ta nhìn rõ mọi vật xung quanh. Nhưng lúc có biểu hiện khác thường như nhân mắt bị đục, khiến cho những tia sáng không thể đi qua được, tùy theo mức độ đục mà trẻ có thể nhìn mờ hoặc không nhìn thấy gì. Khác với người lớn, đục nhân mắt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (dưới 8 tuổi) gây cản trở lớn cho sự phát triển chức năng thị giác, thường dẫn đến chứng nhược thị.

Nguyên nhân đục nhân mắt trẻ nhỏ

Đục nhân mắt tức là thể thủy tinh bị đục, còn gọi là cườm mắt (Catarac). Có nhiều nguyên nhân phát sinh ra chứng đục nhân mắt ở trẻ. Chẳng hạn như đục nhân mắt bẩm sinh hoặc tại trẻ nhỏ có thể có hiện tượng ngay sau lúc sinh, hoặc tiến triển trong những năm đầu của cuộc đời. Chủ yếu có 2 nguyên nhân chính, 1 là do di truyền, gặp 10 - 25%. Hai là do nhiễm khuẩn trong thời kỳ người mẹ thai nghén, nhất là là các bệnh do virút (rubeon, herpes, cúm, quai bị...). Nó có thể xảy ra một cách tự nhiên và không kèm với một bệnh nào khác hoặc trong các hội chứng. Đục nhân mắt này có thể xảy ra ở 1 mắt hoặc cả 2 mắt.

 Ảnh minh họa
Đục nhân mắt bệnh lý do các bệnh ở mắt như: viêm màng bồ đào, glôcôm, bong võng mạc, u nội nhãn... hoặc do các bệnh toàn thân như: đái tháo đường, bệnh galactoza huyết, têtani, bệnh da...

Đục nhân mắt do chấn thương lúc vết thương xuyên, tình trạng này thường gây nên đục nhân mắt tại 1 mắt của trẻ em. Một số dạng đục này có nhất là là tiến triển từ từ sau hàng tuần hoặc nhiều tháng, dạng khác có hiện tượng ngay trong lúc bị chấn thương.

Xử trí đục nhân mắt trẻ nhỏ

Cách xử trí được tiến hành cụ thể là: cho dù đục nhân mắt do nguyên nhân nào đi nữa thì mọi trường hợp đục nhân mắt đều ngăn cản sự phát triển của thị lực nên cần được được lấy nhân mắt đục đi bằng phẫu thuật để phục hồi thị lực. Ở trẻ nhỏ, đây là 1 phẫu thuật khẩn cấp để phòng nhược thị.

Một đường rạch nhỏ tại trong mắt, qua đó nhân đục được lấy ra. Bệnh nhân cần phải nằm viện khoảng từ một - hai ngày. Cả phẫu thuật và phục hồi chức năng tiến bộ phần nhiều trong những năm gần đây. Cho dù mắt được mổ lành rất nhanh, nhưng trẻ cần phải che mắt lại trong vòng một – 2 tuần để giữ cho trẻ không bị những va chạm hoặc những chấn thương vào mắt.

Mặc dù phẫu thuật đạt kết quả cao nhưng vẫn có thể xảy ra biến chứng. Khoảng 95% phẫu thuật nhân mắt ở trẻ em không có khiếu nại gì, tuy nhiên có thể gặp xuất huyết, nhiễm khuẩn, bong võng mạc và glô-côm. Biến chứng nặng phải bỏ nhãn cầu rất ít gặp.

Khả năng tiến triển của mắt sau phẫu thuật sẽ có những diễn biến như sau lúc lấy nhân mắt đục đi cấp thiết phải điều chỉnh quang học cho con mắt này. Đeo kính gọng là sử dụng kính hội tụ có công suất khoảng +9 tới +12 điốp. Đây là phương pháp đơn giản nhất nhưng hiệu quả không cao do kính phóng đại hình ảnh lớn đến 30%.

Kính tiếp xúc thông thường và có kết quả ở trẻ nhỏ để thay thế cho nhân mắt tự nhiên. Các bà mẹ cần phải biết cách chăm sóc kính tiếp xúc, cách lắp vào, lấy ra và phải biết phát hiện những dấu hiệu không bình thường để báo kịp thời cho bác sĩ.

Đặt thể nhân mắt nhân tạo (thủy tinh nhân tạo) là xu thế mới nhất, nhân mắt nằm tại vị trí tự nhiên của nhân mắt tạo điều kiện rất tốt nhất để nâng cao thị lực và phục hồi chức năng thị giác.

Chú ý: trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nguy cơ phát triển nhược thị ngay cả khi đã được phẫu thuật đạt kết quả cao và điều chỉnh quang học tốt. Do vậy sau mổ, trẻ cần phải tập luyện bằng cách bịt mắt lành nhằm phục hồi thị lực lâu dài.

BS. HOÀNG XU N ĐẠI

Viêm phổi do phế cầu ở trẻ em: Phòng ngừa thế nào?

Trời ẩm lạnh là thời điểm dễ dàng cho các bệnh viêm đường hô hấp phát triển. Trong số đó phế cầu khuẩn là 1 trong những nguyên do chính gây ra viêm phổi tại trẻ em. Hiện nay trên thế giới đã có vaccin phòng bệnh, ngoài ra nó lại không tỏ ra có hiệu lực đối với trẻ dưới hai tuổi. Chính vì thế vấn đề phòng bệnh cho trẻ vẫn là cấp thiết nhất.

Tỉ lệ mắc nâng cao cao nếu như có kết hợp với dịch cúm

Tác nhân của bệnh viêm phổi do phế cầu khuẩn chính là Streptococcus  pneumoniae, có đến 23 trong số 83 týp kháng nguyên vỏ được biết là tác nhân gây ra gần 90% các nhiễm khuẩn do phế cầu ở Mỹ. Bệnh xảy ra tại mọi thời điểm trong năm, đối tượng dễ mắc bệnh đặc biệt trẻ em, người già và người mắc bệnh mạn tính. Tại các nước đang phát triển thì trẻ em là đối tượng dễ bị bệnh tấn công nhất và đây cũng là một trong những nguyên do gây tử vong ở trẻ em. Tỷ lệ mắc bệnh tăng cao hơn, tiện dụng hơn ví dụ có kết hợp với dịch cúm.

Phế cầu khuẩn có tại trong chất tiết mũi, họng của người bệnh. Người khỏe mạnh cũng có thể có phế cầu khuẩn trong đường hô hấp trên. Bệnh lây qua giọt nước bọt li ti bắn ra từ người mang vi khuẩn gây bệnh bằng tiếp xúc trực tiếp qua đường miệng hoặc gián tiếp qua các vật thể mới bị nhiễm chất tiết đường hô hấp của bệnh nhân. Bệnh thường gặp qua sự lây truyền giữa người với người nhưng hiếm lúc diễn ra với người có tiếp xúc tình cờ, thoáng qua. Sự cảm nhiễm với phế cầu khuẩn gây viêm phổi nâng cao lên nếu có bất cứ nguyên do nào gây tổn thương thực thể và chức năng đường hô hấp dưới, như cúm, phù phổi do các nguyên nhân, hút đờm rãi sau ngộ độc rượu hoặc các nguyên do khác, bệnh phổi mạn tính hoặc tiếp xúc với các chất kích thích phản ứng đường thở trong không khí (khói, bụi…). Đối với trẻ dưới một tuổi, nhất là những trẻ hay mắc phải viêm họng, viêm phế quản phổi, vừa trải qua tiêu chảy... thì rất dễ mắc bệnh và là 1 yếu tố khiến trẻ bị suy dinh dưỡng. Nguy cơ nhiễm bệnh cũng nâng cao lên tại người già, người có các biểu hiện suy lách thực thể hay cơ năng, bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh bạch cầu, đa u tủy xương, suy thận… Người ta cũng cho rằng những bà mẹ mang thai bị viêm phổi do phế cầu khuẩn thì có thể sẽ sinh con thiếu tháng.

Viêm phổi do phế cầu.

Phế cầu khuẩn là 1 nguyên do lớn gây ra tử vong ở trẻ em

Đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, khởi phát đột ngột với các dấu hiệu thường gặp là sốt, ho ra đờm màu gỉ sắt, đau ngực, rét run, đau màng phổi, khó thở. Ở trẻ em, biểu hiện trước tiên thường là nôn và co giật, còn ở người già thì bệnh thường khởi phát từ từ. Nhìn chung các biểu hiện ở phế quản nhiều hơn tại thùy và phân thùy phổi. Viêm phổi do phế cầu khuẩn là một trong những nguyên nhân chính gây ra tử vong tại trẻ em và người già, nhất là là tại những nơi có điều kiện sống thấp. Trước đây lúc chưa có kháng sinh, tỷ lệ tử vong/mắc tại các bệnh viện là 20- 40%, tỷ lệ này giảm còn 5-10% sau khi kháng sinh được dùng rộng rãi. Nhưng đối với những trẻ suy dinh dưỡng, trẻ sinh thiếu tháng hoặc mắc các bệnh bẩm sinh khác như tim mạch, bị tiêu chảy cấp thì tỷ lệ vẫn tại khoảng 30%, thậm chí là trên 50%. Những bệnh nhân nghiện rượu và mắc các bệnh mạn tính khác thì cũng có tỷ lệ tương tự.

Chẩn đoán sớm nguyên do gây bệnh là yếu tố thiết yếu cho điều trị, các kết quả chẩn đoán sinh vật học có thể không chính xác vì sự có mặt của các loại vi khuẩn gram dương cùng với bạch cầu đa nhân thoái hoá trên tiêu bản, bởi thế nên xác định chính xác bằng phân lập phế cầu khuẩn trực tiếp từ máu và chất tiết trong đường hô hấp lấy từ vết mở khí quản.

Phòng và điều trị bệnh

Vaccin phế cầu có thể ngăn ngừa bệnh cúm

Nhiễm khuẩn, đặc biệt là phế cầu khuẩn có thể xuất hiện ngay sau bệnh do virut như cúm, gây nhiễm khuẩn thứ phát, làm nặng thêm các triệu chứng cúm và tăng nguy cơ liên quan với cúm. Các chuyên gia của Trường Y tế công cộng Rollin thuộc Đại học Emory (Mỹ) đã đưa ra nhiều nghiên cứu cho thấy dùng vaccin phế cầu có thể phòng ngừa được hơn 357.000 ca tử vong trong dịch cúm, giảm được 7 tỷ đôla chi phí y tế trong mỗi mùa cúm. Tiêm chủng phế cầu khuẩn thường quy là phương pháp đi đầu có thể làm giảm đáng kể ảnh hưởng của dịch cúm trong tương lai. Những nước chưa thực hiện chương trình tiêm chủng phế cầu khuẩn nên cân nhắc dùng loại vaccin này.

BS. Nguyễn Văn Dũng

Khi trẻ có những dấu hiệu bệnh cần được chẩn đoán và điều trị sớm và phải điều trị kháng sinh ngay cho trẻ nếu nghi mắc viêm phổi do phế cầu khuẩn dựa trên các dấu hiệu lâm sàng, đặc biệt dấu hiệu nhịp thở nhanh, rút lõm lồng ngực. Hiện nay phế cầu khuẩn là loại vi khuẩn kháng kháng sinh rất mạnh, do đó bác sĩ cần phải cân nhắc thuốc lúc dùng sao cho hiệu quả nhất.

Sau lúc mắc bệnh, miễn dịch đặc hiệu đạt được có thể kéo dài vài năm, đặc biệt các trường hợp nhiễm phế cầu týp huyết thanh có vỏ bao. Để tránh phát triển thành dịch thì không nên tập trung đông người tại nơi có nhiều người mắc bệnh, trẻ em có thể bị lây nhiễm chéo tại bệnh viện nếu cùng bộ phận điều trị có  trẻ mắc căn bệnh này, bởi vậy những trường hợp nhẹ thì nên điều trị ngoại trú. Nên có 1 không gian sống trong lành cho trẻ, không nên cho trẻ tới những nơi đông người, cho trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng… để nâng cao sức đề kháng.

Hiện nay trên thế giới đã có vaccin phòng bệnh, bên cạnh đó nó lại không tỏ ra có hiệu lực đối với trẻ dưới 2 tuổi. Nhóm người có nguy cơ cao được khuyến cáo tiêm phòng là người trên 65 tuổi, người không có chức năng lách, người thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm, bệnh nhân bị suy tim, suy thận, xơ gan, đái tháo đường, ghép tạng…        

BS. Nguyễn Thanh  Hà

Những biến cố trong thời kỳ hậu sản

Thời kỳ hậu sản là khoảng thời gian sau lúc nhau sổ cho đến khi chức năng sinh lý và giải phẫu của cơ quan sinh dục cơ thể người mẹ trở lại trạng thái bình thường, trung bình là 6 tuần lễ. Bên cạnh đó, có thể có những biến cố xảy ra trong thời kỳ hậu sản.

 Ảnh minh họa
Chảy máu sau sinh (CMSS)

CMSS bao gồm băng huyết, tụ máu sau may tầng sinh môn và chảy máu muộn.

CMSS do đờ TC: bình thường sau khi nhau sổ ra ngoài, tử cung phải co lại để cầm máu. Khi TC không co lại được gây ra chảy máu, lúc lượng chảy máu trên 500ml gọi là băng huyết sau sinh kèm theo triệu chứng vã mồ hôi, chân tay lạnh, da niêm xanh, huyết áp tụt, mạch nhanh, TC mềm nhão, ấn vào TC máu từ âm đạo chảy ra nhiều. Đây là một cấp cứu khẩn về sản khoa, cần truyền dung dịch mặn đẳng trương kèm với oxytocin pha truyền tĩnh mạch chảy nhanh, kết hợp hồi sức, truyền dung dịch cao phân tử, truyền hồng cầu lắng cùng nhóm và xoa nắn trên đáy TC giúp cho TC co hồi tốt. Cần kiểm tra lòng TC sau khi dấu sinh hiệu tạm ổn.

CMSS do tổn thương đường sinh dục: nguyên nhân do rách tầng sinh môn, âm đạo và cổ TC. Sau sinh máu từ âm đạo chảy ra nhiều, khám TC co hồi tốt, TC có cầu an toàn rõ, kiểm tra bằng dụng cụ thấy có tổn thương đang chảy máu tại đường sinh dục. Cần hồi sức tốt, truyền dung dịch mặn đẳng trương, lúc sinh hiệu ổn định thì tiến hành may lại chỗ tổn thương và kết hợp dùng thuốc kháng sinh liều cao, giảm đau và giảm sưng nề.

CMSS do bệnh lý rối loạn đông máu và cầm máu: sau sinh máu âm đạo chảy ra nhiều, toàn máu loãng, không có máu cục, người mẹ cảm giác mệt, vã mồ hôi, huyết áp tụt, mạch nhanh, xét nghiệm máu các ứng dụng đông máu cầm máu giảm và kéo dài. Cần truyền dung dịch mặn đẳng trương, dung dịch cao phân tử, huyết tươi đông lạnh và hồng cầu lắng cùng nhóm.

CMSS do tụ máu may tầng sinh môn hay tụ máu sau vết mổ sinh: nguyên do do kỹ thuật may và cầm máu trong lúc khâu không hết còn các mạch máu vẫn đang chảy. Triệu chứng sau lúc khâu vết cắt tầng sinh môn hay vết mổ sinh, tại vết khâu nổi lên 1 khối u lớn, ấn mềm kèm theo các dấu hiệu mất máu rõ trên người mẹ như: dấu sinh hiệu kém, da xanh, niêm mạc nhợt và xét nghiệm hồng cầu giảm, hematocrit giảm và hemoglobin xuống thấp. Cần truyền dịch với dung dịch mặn đẳng trương, truyền hồng cầu lắng cùng nhóm nếu cần, lúc sinh hiệu ổn cần may lại, lấy hết khối máu tụ, cầm máu kỹ, có thể đặt lame dẫn lưu nếu cần.

CMSS do chảy máu muộn: đây là biến cố diễn ra vào tuần thứ 2 hoặc thứ 3 sau sinh do bất thường vùng nhau bám hoặc sót nhau. Triệu chứng ra máu âm đạo tự nhiên, máu đỏ tươi, đôi khi đau nhẹ vùng hạ vị, TC co hồi chậm, siêu âm TC thấy TC còn lớn, lòng TC có khối hỗn hợp. Xử trí nạo hút lòng TC kết hợp truyền dung dịch mặn đẳng trương kèm với oxytocin truyền tĩnh mạch giúp cho TC co hồi rất tốt để cầm máu, dùng kháng sinh toàn thân để tránh nhiễm trùng.

Dự bộ phận chảy máu sau sinh

Tùy theo nguyên nhân CMSS mà ta có dự phòng tốt. Trong băng huyết sau sinh, bộ phận ngừa hiện nay chủ động xử trí tích cực ở giai đoạn 3 của cuộc chuyển dạ, nghĩa là chủ động tiêm oxytocin là thuốc co TC sau khi thai nhi sổ ra. Ngoài ra, đối với những trường hợp tiên lượng dễ băng huyết sau sinh như: đa thai, đa sản, chuyển dạ kéo dài, chuyển dạ có can thiệp sản khoa như trong sinh giúp ta nên lập 1 đường truyền tĩnh mạch, một chai dịch truyền đẳng trương có kèm oxytocin. Trong CMSS do tụ máu sau may tầng sinh môn hay khâu vết may trong mổ sinh, cần cầm máu kỹ các mạch máu bị đứt do cắt, may theo đúng nguyên tắc, đúng kỹ thuật. Trong chảy máu muộn cần kiểm tra kỹ bánh nhau và màng nhau, lưu ý có các bánh nhau phụ. Trường hợp không chắc chắn có thể kiểm tra buồng TC bằng tay, để xem sự vẹn toàn của buồng TC.

Bế sản dịch và dự phòng

Triệu chứng của bế sản dịch: người mẹ sốt nhẹ, căng tức, đau trằn vùng hạ vị. Khám âm đạo rất ít sản dịch có thể kèm mùi hôi do nhiễm trùng, cổ TC đóng kín, sử dụng tay nong cổ TC sản dịch ra màu đen sậm kèm mùi hôi, ấn hạ vị TC lớn, đau nhiều lúc ấn đáy TC.

Xử trí: dùng ngón tay nong cổ TC để sản dịch thoát ra ngoài, nếu như cổ TC cứng chít hẹp không thể nong bằng tay được ta sử dụng que héga để nong cổ TC từ số nhỏ đến que số lớn, có thể dùng thuốc misoprostol đặt âm đạo trước 4 giờ, giúp cho cổ TC mềm và cổ TC mở kết hợp nong cổ TC. Đồng thời dùng oxytocin pha truyền tĩnh mạch giúp TC co hồi tốt, kết hợp dùng thuốc kháng sinh liều cao toàn thân để tránh nhiễm trùng.

Nhằm tránh sản dịch ứ lại trong buồng TC cũng như bộ phận ngừa viêm nội mạc TC do bế sản dịch. Nhất thiết kiểm tra cổ TC sau sinh, cần nong rộng cổ TC. Đối với trường hợp sinh mổ chủ động, sau lúc bóc nhau ra và lau sạch lòng TC cần nong cổ TC từ đường mổ xuống đoạn dưới TC bằng tay phẫu thuật viên, trước khi may lớp cơ TC. Sau khi mổ xong giai đoạn lấy máu cục âm đạo, cần được nong cổ TC một lần nữa.

Sau sinh cần vận động sớm, có thể nằm sấp với thời gian từ 20 - 30 phút mỗi ngày đối với người mẹ có TC tại tư thế gập trước, giúp cho sản dịch ra dễ dàng.

Những rối loạn vào đường tiết niệu

Bí tiểu sau sinh: trong chuyển dạ, khi ngôi thai xuống thấp, thường là đầu thai nhi, đè về cổ bàng quang hay niệu đạo gây ứ đọng nước tiểu làm bàng quang căng giãn, lúc giãn nhiều làm mất trương lực, làm co thắt cơ cổ bàng quang. Ngoài ra, trường hợp sau sinh phải cắt may tầng sinh môn, làm chỗ may sưng nề đau làm cho người mẹ lúc đi tiểu không dám rặn tiểu vì đau. Sau khi sinh bàng quang không nhạy cảm với kích thích khi nước tiểu đầy, gây bí tiểu. Ngoài ra lúc bí tiểu, động tác thông tiểu nhiều lần gây viêm bàng quang, làm cho triệu chứng bí tiểu thể hiện rõ. Điều trị bí tiểu sau sinh, bằng cách khôi phục lại trương lực bàng quang bằng những biện pháp như: chườm ấm vùng bàng quang, rửa hay ngâm vùng sinh dục ngoài bằng nước ấm, vận động sớm, tập ngồi tiểu theo tư thế bình thường. Sau những biện pháp trên không thành công, ta đặt sonde tiểu giữ và tháo kẹp mỗi 4 giờ/lần, tạo lại phản xạ đi tiểu, kết hợp sử dụng thuốc prostigmin hay xatral sử dụng thời gian 4 - 5 ngày. Sau đó rút sonde tiểu cho cho người mẹ tập đi tiểu.

Són tiểu: ngược lại với trường hợp bí tiểu do co thắt cơ tại cổ bàng quang, những người mẹ bị són tiểu sau sinh là do cơ co thắt cổ bàng quang không tốt, gặp trong trường hợp chuyển dạ kéo dài; sinh đẻ nhiều lần. Khi người mẹ cười, khi gắng sức, lúc ho làm nâng cao áp lực ổ bụng làm cho nước tiểu bị són ra ngoài. Cách điều trị: giải đáp cho người mẹ yên tâm vào tinh thần, chế độ nghỉ ngơi rất tốt và dinh dưỡng sau sinh đầy đủ kết hợp dùng prostigmin khoảng một tuần sẽ ổn định. Trường hợp không khỏi và kéo dài qua thời kỳ hậu sản, có kế hoạch phẫu thuật nâng bàng quang bằng mức chi phí đỡ tại đối tượng sinh nhiều mà có tiểu són kéo dài.

Viêm tắc tĩnh mạch sau sinh

Viêm tắc tĩnh mạch ở thời kỳ hậu sản thường gặp là viêm tắc tĩnh mạch đùi nông. Triệu chứng, thường xảy ra vào ngày thứ 3 trở đi sau sinh, sốt cao 38,5 – 39oC, chân bị viêm rất đau, không thể nâng chân lên khỏi mặt giường được, tĩnh mạch sưng đỏ dọc theo chân. Toàn bộ chân phù nề trắng.

Điều trị: nằm bất động, chân bị viêm nâng cao hơn đầu, giúp cho máu tại phần chi dưới được lưu thông dễ dàng hơn. Dùng thuốc kháng sinh toàn thân liều cao, giảm đau, hạ sốt, có thể sử dụng Aspirin rất tốt trong trương hợp này, ngoài tác dụng giảm đau, thuốc còn có tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu và dính về thành mạch, hạn chế sự hình thành cục máu đông. Sử dụng Heparin, đây là thuốc đầu tay, có vai trò cần thiết điều trị huyết khối và tắc mạch, sử dụng bằng tiêm tĩnh mạch.

Dự phòng: hoạt động sớm sau lúc sinh, không nên nằm lâu trên giường, vận động tay chân, lúc nằm gác chân cao giúp sự lưu thông máu tốt.

BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN

Chuyển dạ sinh và cách xử trí

Để hiểu rõ quá trình chuyển dạ sinh (CDS). các bà mẹ cần nhận ra các dấu hiệu báo trước và có kế hoạch đến bệnh viện hay nhà bảo sanh được đúng lúc, tránh những bất trắc xảy ra.

CDS được hiểu như thế nào?

CDS là quá trình diễn biến của nhiều hiện tượng, quan trọng là cơn co tử cung làm cho cổ tử cung xóa mở dần, kết quả là thai nhi và nhau được sổ ra ngoài. Diễn tiến cuộc chuyển dạ trải qua 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1, là giai đoạn xóa mở cổ tử cung, tại giai đoạn này có thời gian dài nhất trong 3 giai đoạn của cuộc chuyển dạ, con so thời gian 8 - 12 giờ, con rạ thời gian 4 - 6 giờ.

- Giai đoạn hai là giai đoạn sổ thai, đây là giai đoạn người mẹ đau nhiều, thời gian tại con so 30 - 50 phút, con rạ 20 - 30 phút.

- Giai đoạn 3 là giai đoạn sổ nhau, thời gian trung bình con so là 20 – 30 phút, con rạ là 15 - 20 phút.

 Theo dõi sản phụ trong quy trình chuyển dạ
Các dấu hiệu nhận biết CDS

- Sản phụ mang thai vào những tuần cuối của thai kỳ tự nhiên đau bụng vùng bụng dưới, cơn đau từng cơn, mỗi cơn đau dài khoảng 20 – 30 giây, rồi lại nghỉ 3 - 4 phút sau đó cơn đau có hiện tượng lại. Trong 10 phút cơ thể có hiện tượng từ 2 - 3 cơn đau, kèm theo ra nhớt hồng tại âm đạo.

- Đôi khi sản phụ không có cảm giác cơn đau, nhưng bỗng nhiên ở âm đạo ra nước nhiều làm ướt cả quần. Đây là trường hợp vỡ ối sớm.

- Có những trường hợp xuất hiện không đầy đủ, duy nhất ra nhớt hồng âm đạo, hay đau lưng mà không có cảm giác đau bụng dưới.

Tại sao có cơn đau bụng trong CDS?

Nguyên nhân phát sinh cơn đau bụng trong chuyển dạ bao gồm nhiều yếu tố khác nhau: sự đánh tráo nồng độ các kích thích tố như: estrogen, progesteron, prostaglandin. Những đánh tráo về thần kinh, nội tiết và các yếu tố cơ học ở chỗ.

Cơn co tử cung gây ra cơn đau bụng, cơn co này mang tính chất tự động, không tùy thuộc về sản phụ. Cơn co tử cung có tính cách nhịp nhàng, đều đặn, nâng cao dần về cường độ và thời gian co. Lúc mới chuyển dạ, tử cung gò nhẹ và thưa, nhưng dần dần, tử cung gò nhiều, mạnh hơn và lâu hơn.

Khi xuất hiện cơn co tử cung làm cho tử cung gò lên, sản phụ sẽ có cảm giác đau, sang giai đoạn nghỉ tử cung hết gò, cảm giác không đau nữa.

Tác dụng của cơn co tử cung trong chuyển dạ.

Bình thường trong thời gian mang thai, cổ tử cung đóng và được gắn kín bởi nút nhầy cổ tử cung. Khi thai đã đủ tháng, dưới tác dụng của cơn co tử cung gây nên cuộc chuyển dạ. Cơn co tử cung làm cho cổ tử cung có hiện tượng xóa (cổ trong và cổ ngoài nhập lại thành một) và từ từ mở ra, làm thoát nút nhầy song song làm vỡ các mao mạch, máu hòa vào nút nhầy gây ra nhớt hồng âm đạo.

Cơn co tử cung giúp cho đầu thai nhi lọt xuống và sổ ra ngoài âm đạo. Sau lúc thai được sổ ra ngoài, cơn co tử cung giú p cho tử cung co lại đồng thời gây ra hiện tượng nhau bong và nhau thoát ra ngoài.

Cuộc chuyển dạ đã hoàn tất, cơn co tử cung lại tiếp tục giúp cho tử cung co hồi rất tốt làm cho sự cầm máu xảy ra, bởi thế sản phụ không bị mất máu.

Quá trình thai nhi được sinh như thế nào?

Vào giai đoạn hai của cuộc chuyển dạ, sản phụ đau bụng ngày một tăng từng cơn và cảm giác mót rặn, muốn đi cầu. Khi đó cổ tử cung mở gần trọn, đầu thai nhi xuống thấp. Sản phụ được hướng dẫn lên bàn sinh hay ở giường sinh. Sau 20 - 30 phút theo cơn rặn sinh của sản phụ kèm với cơn co tử cung và sự hướng dẫn của bác sĩ, thai nhi được xổ ra ngoài âm đạo, bác sĩ đỡ bé và có động tác hút nhớt giúp cho bé cất tiếng khóc chào đời; cô nữ hộ sinh cân bé xem bé nặng bao nhiêu. Bé được ủ ấm và tắm ấm trên bàn đặc biệt, sau lúc cắt rốn, bé được nhỏ mắt và tiêm ngừa xuất huyết não màng não bằng vitamin K1 1mg tiêm bắp. Trong vòng 24 giờ đầu, bé được tiêm ngừa lao và ngừa viêm gan siêu vi B.

Dự phòng

CDS là một cuộc chuyển dạ không theo ý muốn của sản phụ, bởi thế cơn đau bụng diễn ra vào lúc nào sản phụ nên tới bệnh viện ngay, bất kể ngày hay đêm. Các khoa sản của bệnh viện luôn luôn túc trực 24/24 giờ và có đội ngũ nữ hộ sinh, bác sĩ sẵn sàng tiếp nhận sản phụ.

BS.CKII. NGUYỄN HỮU THUẬN

Món ăn bài thuốc cho trẻ thiếu máu thiếu sắt

Trong chứng bệnh thiếu máu ở trẻ nhỏ, thường gặp nhiều đặc biệt bệnh thiếu máu thiếu sắt. Trẻ có sắc mặt trắng xanh, môi, móng tay nhợt nhạt, cơ bắp nhẽo. Trẻ thường mệt mỏi, biếng chơi, không chịu ăn, bứt rứt. Trường hợp nặng, trẻ có thể bị thiếu máu mạn tính kèm theo các triệu chứng như gan, lách sưng to, bụng ỏng, ống chân nhỏ, số lượng hồng cầu thấp, sắt trong huyết thanh hạ thấp. Nguyên nhân là do trẻ bị mất máu mạn tính do mắc bệnh giun sán dẫn đến khả năng hấp thụ sắt quá kém…; lượng sắt hấp thụ không đầy đủ do ăn uống không đầy đủ chất dinh dưỡng hoặc ăn uống không hợp lý… Y học cổ truyền coi thiếu máu thiếu sắt của trẻ là một bệnh thuộc chứng cam, bị cảm nhiễm trong quy trình nuôi dưỡng. Sau đây là những món ăn bài thuốc tốt cho trẻ mắc bệnh này, các bà mẹ có thể tham khảo áp dụng.

Cháo gan gà: Gan gà hai bộ, gạo 50g, dầu thực vật, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Gan gà băm nhỏ, ướp bột gia vị, xào bằng dầu thực vật cho chín. Gạo xay thành bột cho về nồi, đổ nước vừa đủ, quấy đều đun trên lửa nhỏ, lúc cháo chín cho gan gà vào đảo đều, cháo sôi lại cho bột ngọt về là được. Cho trẻ ăn ngày hai lần lúc đói. Cần ăn liền 10 ngày, nghỉ 5 ngày lại cho ăn tiếp 10 ngày.

Cháo tiết gà: Tiết của 1 con gà, gạo 50g, dầu thực vật, bột ngọt, bột gia vị  vừa đủ. Tiết gà cắt thành miếng nhỏ, ướp bột gia vị, xào bằng dầu thực vật cho chín. Gạo xay thành bột, đổ nước vừa đủ, khuấy đều trên lửa nhỏ, khi cháo chín cho tiết gà, bột ngọt vào là được. Cho trẻ ăn ngày hai lần khi đói. Ăn liền 10 ngày, nghỉ 5 ngày lại ăn tiếp 10 ngày.

Cháo xương ống chân dê: Xương ống chân dê 2 cái (chân trước), táo tàu 10g, gạo tẻ 50g, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Xương ống chân dê làm sạch đập dập, cho vào nồi, đổ nước ninh thật kỹ, chắt lấy nước ngọt và phần thịt mềm. Táo tàu bỏ hạt giã nhỏ, gạo xay thành bột, tất cả cho vào nước xương ống chân dê, quấy đều đun trên lửa nhỏ. Cháo chín cho bột ngọt, bột gia vị quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày một lần lúc đói, cần ăn liền 10 - 15 ngày.

Cháo lươn: Lươn 200g, gạo 50g, gừng 5g, dầu thực vật, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Lươn làm sạch bỏ nội tạng, bỏ đầu từ mắt trở lên, bỏ đuôi từ hậu môn xuống. Cho lươn vào bát to, hấp cách thủy cho chín, gỡ lấy thịt nạc. Gừng giã nhỏ lọc lấy 1 thìa canh nước cùng bột gia vị cho về thịt lươn trộn đều, dùng dầu thực vật xào cho khô. Xương lợn giã nhỏ lọc lấy nước ngọt. Gạo xay thành bột cho về nước lọc xương lươn đun trên lửa nhỏ, cháo chín cho thịt lươn, bột ngọt  vào đảo đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần lúc đói. Cần ăn khoảng 15 – 20 ngày.

 Ngó sen hầm xương lợn.

Ngó sen hầm: Xương ống chân lợn 300 – 500g, ngó sen 150g, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Xương ống chân lợn đập dập cho vào nồi thêm 500ml nước ninh cho thật nhừ, lọc lấy thịt và chắt lấy 300ml nước ngọt. Ngó sen rửa sạch nạo thành sợi nhỏ, cho về nước xương đun sôi kỹ, trước khi ăn cho bột ngọt, bột gia vị về quấy đều. Chia làm hai lần ăn trong ngày lúc đói, có thể ăn với cơm. Cần ăn liền 15 – 20 ngày.

Ba ba hấp: Ba ba 1 con (250 – 300g), củ mài 30g, long nhãn 15g, bột gia vị vừa đủ. Ba ba sống dội nước sôi để ba ba bài hết nước tiểu, mổ bụng, bỏ hết nội tạng rửa sạch, củ mài thái nhỏ, long nhãn, bột gia vị cùng cho vào bụng ba ba đem hấp cách thủy. Khi ba ba chín, chia 2 lần cho trẻ ăn trong ngày. Cách 3 ngày ăn 1 ngày. Cần ăn liền 3 – 5 lần.

Chim bồ câu hấp: Chim bồ câu 1 con, phòng đảng sâm 15g, đương quy 20g, bột gia vị vừa đủ. (Nếu không có bộ phận đảng sâm, đương quy có thể thay bằng hạt sen, long nhãn). Chim bồ câu chọn con mới biết bay, làm sạch, bỏ nội tạng, cho phòng đảng sâm, đương quy, bột gia vị vào bụng chim khâu kín, đem hầm cách thủy, chim chín cho trẻ ăn làm 2 lần trong ngày. Cách 2 ngày ăn một ngày. Cho trẻ ăn khoảng từ 5 – 10 con.

 Mộc nhĩ đen hấp táo tàu.

Mộc nhĩ đen hấp: Mộc nhĩ đen 15g, táo tàu 15 quả, thịt lợn nạc 50g, đường trắng 10g. Mộc nhĩ đen ngâm nước nóng, rửa sạch thái thật nhỏ, táo tàu bỏ hạt thái nhỏ, thịt lợn nạc rửa sạch băm nhỏ, tất cả cho về bát trộn đều với đường trắng, đem hấp cách thủy. Khi thịt chín cho trẻ ăn ngày một lần. Cần ăn liền 10 – 15 ngày.

Lưu ý: Khi trẻ mắc bệnh thiếu máu thiếu sắt cần tăng cường các thức ăn, nước uống có rất nhiều sắt như rau muống, các loại đậu, trứng gà, vịt, chim, thịt nạc, gan động vật, tiết gà, tiết vịt… và các loại quả tươi có rất nhiều vitamin A, C như cam, quýt, táo, cà chua, cà rốt, gấc, dưa chuột, cải xanh… Không cho trẻ ăn nhiều mỡ động vật, trái cây có rất nhiều dầu, các chất cay nóng khó tiêu.

 Lương y Đình Thuấn

Bệnh chảy máu cam ở trẻ

Con tôi năm nay lên 8 tuổi, cháu từ nhỏ đã hay bị chảy máu cam. Sau đó lớn lên đỡ hơn, nhưng cách đây 1 tháng cháu bị ộc máu cam từ mũi khá nhiều. Cách đây hai tuần, ở họng cháu đùn ra đờm có máu như tiết, cháu nhổ độ 5 - 6 lần ra máu, sau đó thì cả ngày không thấy ra nữa. Cháu vốn là đứa trẻ cao lớn khỏe mạnh và ít lúc bị ốm vặt.

Hiện tượng như vậy có đáng lo ngại không và có cần gấp phải đi xét nghiệm không?

( Lê Văn Long - An Giang)

Chảy máu mũi tại trẻ nhỏ thường không đáng lo ngại lắm vì ở đầu vách ngăn mũi có một vị trí được gọi là điểm mạch, có khi chỉ cần sốt cao trẻ cũng bị chảy máu mũi rồi chưa nói tới trẻ em hay dụi mũi ngứa mũi làm chấn thương vùng này. Với những trường hợp này máu mũi không chảy lâu, chỉ cần nhét miếng bônghơi chặt một tí ngay cửa mũi, hay lấy 1 ngón tay ép sát cánh mũi bên bị chảy máu mũi một lúc về phía vách ngăn là hết chảy.

Nếu trẻ em chảy máu mũi liên tục nên xét nghiệm máu coi có bất thường các thành phần của máu không, hay có bệnh gì vào máu không.

Riêng vào trường hợp con của bạn, ngoài xét nghiệm máu nên cho cháu chụp CT và nội soi vòm họng kiểm tra thêm để loại trừ bệnh u xơ vòm mũi họng.

Bệnh u xơ vòm mũi họng hay gặp tại các cháu nam tuổi từ 14 - 16. Con bạn mới 8 tuổi không nghĩ nhiều đến bệnh này. Tuy nhiên, dù hiếm nhưng vẫn có những trường hợp bệnh u xơ vòm mũi họng tại trẻ nhỏ tuổi hơn, vì vậy làm đầy đủ xét nghiệm vẫn tốt và yên tâm hơn.

BS.CKII. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

Trẻ ngọng

Trong sự phát triển của trẻ, ngôn ngữ được hình thành trên địa chỉ các yếu tố di truyền bên trong như phức hợp các phản xạ có điều kiện nhờ tác động của các yếu tố từ môi trường bên ngoài, trước tiên là các kích thích về cửa hàng nghe. Nếu có sự trục trặc nào đó trong quy trình hình thành ngôn ngữ sẽ xảy ra hiện tượng rối loạn ngôn ngữ tại trẻ, điển hình là ngọng. Tuy nhiên, đây là bệnh có thể chữa được và càng chữa sớm thì hiệu quả càng cao, tránh cho trẻ những thiệt thòi trước khi đến trường.

Dấu hiệu trẻ ngọng

Trẻ em nếu phát triển ngôn ngữ thông thường sẽ tự phát âm được 1 vài từ khi 12-15 tháng và đến hai tuổi đã nói được một số câu ngắn, giản đơn như “con đói rồi”, “bố đã về”, “anh chơi với em nhé!”… Nếu tới hai tuổi mà ngôn ngữ không phát triển một cách tự phát, hoặc phát triển không hoàn chỉnh thì phải đưa trẻ đi khám chuyên khoa để được phát hiện và có hướng khắc phục sớm cho trẻ. Ngọng là một biểu hiện phát triển ngôn ngữ không hoàn thiện thường thấy ở trẻ dưới 5 tuổi. Ngọng là do không nói được đúng một số âm hoặc trẻ tự thay thế những âm này bằng âm khác như th thành kh, b thành p...

Qua nghiên cứu, người ta thấy ngọng có 2 loại là ngọng thực thể và ngọng cơ năng. Ngọng thực thể gây ra bởi những biến đổi thực thể của bộ máy phát âm hoặc của hệ thần kinh trung ương; các rối loạn vào khả năng nghe trong trường hợp rối loạn sức nghe chính yếu bị ảnh hưởng đến các âm cao; do bất thường của bộ máy phát âm như hở hàm ếch, liệt lưỡi, liệt môi, liệt màn hầu. Ngọng cơ năng phát sinh do rối loạn quá trình phát triển của ngôn ngữ mà không tìm thấy 1 tổn thương nào khác suốt quy trình hình thành ngôn ngữ.

Ngọng chỉ ảnh hưởng đến từng âm riêng lẻ (ngọng âm) hoặc từng nhóm âm (ngọng âm tiết) hoặc toàn bộ từ ngữ bị phát âm méo mó. Rối loạn các âm gió gọi là ngọng âm gió, rối loạn phát âm âm “r” gọi là ngọng âm r màn hầu, do môi, răng, ngọng âm “l”… Nếu trẻ bị ngọng thì việc điều trị càng sớm sẽ càng tốt, phải xử trí trước khi hình thành ngôn ngữ hoàn thiện là 4-5 tuổi. Nếu có những tổn thương tại cơ quan phát âm như sứt môi, hở hàm ếch, xẻ lưỡi gà… nên phẫu thuật chỉnh hình, tái tạo lại cơ quan phát âm.

 Trẻ nói ngọng có thể chữa khỏi hoàn toàn.
4 nguyên tắc chữa ngọng cho trẻ.

Trong những trường hợp trẻ bị ngọng, cha mẹ phải thật kiên trì dạy con nói thật chậm, từng từ, từng câu và hỗ trợ con theo các bài tập cơ bản sau:

Tập chữa ngọng bằng hệ thống bài tập, dựa trên 4 nguyên tắc chính.

Thời gian của các bài tập phải ngắn: do sự tập trung về bài tập của trẻ hạn chế. Nếu bài tập dài sẽ làm trẻ rất chóng mặt, bởi vậy khả năng tập trung bằng tai, trẻ nghe âm thanh đúng của âm được luyện tập bị giảm sút. Do đó thời gian bài tập chỉ nên khoảng 2-3 phút. Tuy nhiên muốn tập rất tốt phải tập nhiều lần trong ngày (có thể từ 20 - 30 lần/ngày).

Giám sát bằng tai nghe: thường trẻ ngọng không có ý thức rằng mình đã phát âm sai, cho nên cần phải luyện tập cho trẻ cách phân biệt thế nào là âm đúng.

Sử dụng các âm bổ trợ: thực tế là các mô hình phát âm sai thường cố định rất vững chắc và không thể phá vỡ bằng cách diễn tả giản đơn cho trẻ cách thức cấu âm đúng. Vì thế lúc tập phải cho trẻ phát âm những cấu âm mà trẻ đã biết là đúng và có vị trí cấu âm như vậy với âm luyện tập. Ví dụ khi tập sửa âm gió, ta dùng âm bổ trợ “t”, trong tập âm “r” dùng âm bổ trợ “đ”… m bổ trợ được chuyển dần từng bước sang âm luyện tập.

Dùng sức tác động thấp nhất gồm giảm được cử động và sức trong khi cấu âm. Cần thiết khi bắt đầu luyện tập 1 âm mới phải phát âm nhẹ, khẽ, không cần sức để cho âm đó không khác thường lúc nói và được sát nhập nhanh nhất với các âm khác.

Giai đoạn đầu tập luyện, cha mẹ nên ngồi cùng các con lúc giáo viên hướng dẫn mới có thể tập đúng cho trẻ khi ở nhà. Ngọng là một bệnh có thể chữa được vì thế nên phải phát hiện sớm để hướng dẫn trẻ khắc phục kịp thời, tránh những thiệt thòi cho con trước lúc đến trường.  

ThS. Phạm Bích Đào